Niệm hương hay Niêm hương

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Thông thường các buổi lễ trong đạo Phật đều có phần niêm hương bạch Phật, gọi tắt là niêm hương.

Từ Đại lễ Phật đản tổ chức trên các lễ đài lộ thiên, cho đến lễ cầu an, cầu siêu trong các chùa, lễ an vị Phật tại tư gia, lễ cúng giỗ ông bà Tổ tiên trong gia đình đều có niêm hương.

Niêm hương bạch Phật là tay cầm cây hương dâng lên cúng dường và trình bạch lên đức Phật hôm nay mình làm việc gì đó, cầu xin Tam bảo chứng minh gia hộ cho buổi lễ được thành tựu viên mãn.

Các buổi lễ được tổ chức trang trọng đều có thư mời và kèm theo chương trình, trong chương trình có mục niêm hương bạch Phật gọi tắt là “niêm hương”. Gần đây, tôi thấy từ Giáo hội Trung ương cho đến Thành hội, quận huyện giáo hội, các chùa và các tư gia mỗi khi có tổ chức lễ hầu hết ghi trong chương trình là NIỆM HƯƠNG. Danh từ “niệm hương” được dùng không chính xác và thường gợi lên ý tưởng sai lầm một cách vô nghĩa. Rồi theo đó mà in ấn phát, xướng ngôn viên lặp đi lặp lại trên loa phóng thanh, nhiều khi gây ấn tượng thiếu tịnh tín nhiệt thành. Vì vậy nên tôi mạo muội giải thích hai từ “niệm hương” và “niêm hương”, hầu mong sau này các bộ phận văn phòng, in ấn, xướng ngôn viên dùng từ cho đúng ý nghĩa của nó.

Trước hết tôi xin thành tâm sám hối với chư Tôn đức Tăng, Ni và quý thức giả. Dùng từ “niêm hương” và “niệm hương” nhầm lẫn như thế là do bộ phận văn phòng, thư ký và xướng ngôn viên, chứ không phải do quí Ngài. Cụ thể như Đại lễ Phật đản năm nay (Phật lịch 2548) tại Quảng hương Già lam, do tôi làm trưởng ban tổ chức vậy mà trong chương trình vẫn để là “niệm hương”.

Vậy “niêm hương” và “niệm hương” khác nhau như thế nào?

Chữ “niêm” (拈) gồm có bộ thủ (扌) là tay và chữ chiêm (占) là xem đoán. Theo Từ điển của Đào Duy Anh chữ “niêm” là dùng ngón tay mà lấy vật gì, tức là nắm lấy một vật cụ thể. Như vậy, niêm hương là dùng tay nắm lấy cây hương dâng lên cúng Phật để cầu nguyện thành tựu một công việc nhất định, gọi là niêm hương bạch Phật.

Nguyên lai, thuở xưa, trên hội Linh Sơn, khi đức Phật cầm nhánh hoa đưa lên thì ngài Ca-diếp mỉm cười, do đó mà có sự lưu truyền tâm ấn của Thiền tông, gọi là “niêm hoa vi tiếu” (拈華微笑). Niêm hương và niêm hoa, tuy hai sự việc có vẻ khác nhau, nhưng ý nghĩa cũng gần tương tự.

Theo Phật quang Từ điển, mục từ “Niêm hương” (拈香), được giải thích là “sự đốt hương, dâng hương trước tượng Phật, Bồ-tát và Tổ sư. Từ “niêm hương” cũng có khi viết là 捻香, đọc là “niệm hương” cũng đồng nghĩa với “niêm hương.”

Nhưng, chữ 捻 này đọc là “niệm” có nghĩa là “vo tròn”, đồng âm với chữ “niệm” (念) là nhớ nghĩ. Để không nhầm lẫn với từ “niệm Phật” (念佛) nên thường không nói là “niệm hương” mà nói là “niêm hương”.

Chữ “niệm” (念) gồm có bộ tâm (心) và chữ kim (今). Niệm là nhớ nghĩ, đọc tụng, như niệm Phật là nhớ nghĩ Phật, niệm kinh là đọc tụng kinh, niệm thư là đọc sách, v.v... Nếu nói niệm hương là nhớ nghĩ cây hương, hay đọc tụng cây hương, nhưng cây hương thì có gì đâu mà phải nhớ nghĩ, đọc tụng. Cho nên dùng từ “niệm hương” như vậy là không đúng, không có nghĩa. Cứ thấy vị chứng minh hay chủ sám trong buổi lễ cầm hương quỳ trước bàn thờ Phật mật niệm gì đó mà vội cho rằng đó là niệm hương, sự thật là không phải như vậy.

Về ý nghĩa “niêm hương”, trong sách Tổ đình sự uyển, quyển 8, mục “niêm hương”, có nói: “Họ Thích khi làm Phật sự không bao giờ mà không bắt đầu bằng sự niêm hương.” Đó là lấy cây hương để biểu lộ tín tâm. Mà Kinh nói, Tín là nguồn suối của Đạo, và mẹ của các công đức, nuôi lớn các gốc rễ lành (Tín vi Đạo nguyên công đức mẫu, Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn 信爲道源功德母信能長養諸善根) là theo ý đó.

Vậy, mong rằng bộ phận văn phòng, thư ký, xướng ngôn viên, v.v… lưu ý nên dùng cho đúng chữ “niêm hương” chứ không nên đọc là “niệm hương” để khỏi nhầm lẫn.

Quảng hương Già lam
Mùa an cư, Phật lịch 2548
Thích Đức Chơn.

[Tập san Pháp Luân - số 4, tr.]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.