Triết học Phật giáo Hàn quốc

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

THỜI KỲ CHOSÔN (1392-1910) 

Triều đại Chosôn được thành lập dựa trên nền tảng học thuyết Tân Khổng giáo (Tống Nho), một học thuyết kết hợp tư tưởng chính trị nhấn mạnh đến đạo đức xã hội, đặc biệt là đạo đức gia đình. Giới Nho sĩ Tân Khổng giáo chống đối Phật giáo rất gay gắt, vì theo họ, Tăng sĩ Phật giáo là những kẻ xuất gia, sống đời sống độc thân, không gia đình. Trong suốt triều đại Chosôn, đạo Phật không những bị loại ra khỏi lãnh vực chính trị mà còn bị quên lãng trong tầng lớp trí thức. Trong sự phân tầng xã hội, Tăng sĩ Phật giáo bị xếp vào tầng lớp thấp kém trong xã hội, họ bị cấm, không được phép vào Thủ đô. Trong bối cảnh cực kỳ khó khăn này, Phật giáo gần như hoàn toàn bị quên lãng và bị đẩy lùi về vùng thôn quê hẻo lánh.

Đứng trước thực trạng khó khăn này, nhiều Tăng sĩ và Phật tử đã nỗ lực đề ra một chủ trương hòa hợp tôn giáo: Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo, gọi là Tam giáo Đồng nguyên. Sự tổng hợp này, một lần nữa, thay đổi Phật giáo theo một mô hình Phật giáo mới để đáp ứng trước tình thế bất lợi của Phật giáo nước này.

Thiền sư Kỷ Hòa (Kihwa 1376-1433), còn được biết là Hamheo Deuktong, đã tiếp nối tinh thần dung hợp các Tông phái Phật giáo của Thiền sư Trí Nột (Chinul) và là Tăng sĩ Phật giáo đầu tiên lưu tâm đến những công kích Phật giáo của giới Nho sĩ Tân Khổng giáo. Ngài cũng là Tăng sĩ Phật giáo đầu tiên thừa nhận sự tương đồng giáo thuyết giữa Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo. Cuộc đời tu đạo và hành đạo của ngài đã phản ánh trọn vẹn quan điểm Tam giáo Đồng nguyên của ngài. Thiền sư Kỷ Hòa trước tác rất nhiều tác phẩm, trong đó, ngài lấy tư tưởng của Khổng giáo và trích dẫn lời dạy của Khổng giáo để giải thích tư tưởng của Phật giáo. Ngài cho rằng, Phật giáo và Khổng giáo không chống trái nhau, mà hỗ trợ lẫn nhau. Ngài không những chỉ trích thái độ thiếu khoan dung của Tăng sĩ Thiền tông đối với Giáo tông, mà còn phê phán thái độ thù ghét Phật giáo của giới Nho sĩ Khổng giáo. Trước khi theo Phật, Kỷ Hòa là một Nho sĩ, xuất thân trong một gia đình quý tộc, được đào tạo theo khoa bảng Khổng giáo. Ngài thường sử dụng thơ ca, bằng thi pháp của riêng ngài và thi pháp đương đại, để diễn giải kinh Phật.

Triết lý hòa giải của Thiền sư Kỷ Hòa được trình bày trong tác phẩm Hiển Chánh Luận (Hyeonjeong non) của ngài. Trong phần mục đề cập về sự dung hòa giữa Phật giáo và Khổng giáo, Kỷ Hòa không chỉ ủng hộ việc sử dụng ngôn ngữ của Khổng giáo để giải thích giáo lý Phật giáo, mà còn đi xa hơn, khuyến khích lấy kinh văn của Khổng giáo để giải thích giáo nghĩa của kinh Phật. Cũng trong tác phẩm này, Thiền sư Kỷ Hòa trình bày sự tương đồng về những hoạt dụng đa dạng của tâm thức giữa hai tôn giáo này, điều mà ngài cho rằng Phật giáo gọi là các pháp hiện khởi câu hữu với tâm nhiễm ô, thường được Tân Khổng giáo hiểu là những điều làm chướng ngại bản chất chân thật của tâm thức. Theo cách trình bày này, Thiền sư Kỷ Hòa lý giải những tương đồng giữa Phật giáo và Khổng giáo, vì cả hai đều nỗ lực đoạn trừ những pháp hiện khởi với tâm ô nhiễm (của Phật giáo) và những điều làm chướng ngại bản chất chân thật của tâm thức (của Tân Khổng giáo), và như vậy, sau khi đoạn trừ những pháp nhiễm ô đó, chân tâm sẽ được hiển bày. Phật giáo gọi tâm ấy là “tâm giác ngộ”, và Tân Khổng giáo gọi nó là “Thánh chủng”. Kỷ Hòa nhấn mạnh rằng mục đích cuối cùng của Phật giáo và Khổng giáo không khác, nó tồn tại như một thể thống nhất. Cả hai tôn giáo này có cùng một mục đích cần đạt được, đó là Chân lý. Ngài cũng chứng minh phương pháp tu dưỡng của Phật giáo không khác với quy tắc dưỡng tâm của Khổng giáo, giống nhau ở từng cấp bậc, đầu tiên phải tu dưỡng chính bản thân mình (tu thân); kế đến là, bình ổn gia đình (tề gia); tiếp theo là, an định quốc gia (trị quốc) và cuối cùng là, bình định thiên hạ (bình thiên hạ). Hơn nữa, Thiền sư Kỷ Hòa cho rằng, giáo lý nhà Phật đưa ra nhiều phương pháp thực hành để phù hợp với nhiều trình độ, khả năng khác nhau của con người, từ thực hành Bồ-tát đạo cho đến thực hành những giá trị đạo đức trong cuộc sống thường nhật của con người. Với cách lý giải này, Kỷ Hòa muốn giải thích tính cao vượt của giáo lý Phật giáo, giáo lý ấy bao trùm tất cả vũ trụ và bao hàm tất cả mọi người, mọi loài, trong khi tư tưởng của Khổng giáo chỉ giới hạn trong tầng lớp của những người có học thức cao.

Về phương diện xã hội, Khổng giáo thường được xem là tích cực hơn Phật giáo. Kỷ Hòa có cách biện giải khác. Ngài cho rằng, tư tưởng xã hội của Khổng giáo lấy việc thưởng phạt để quản lý con người, thường chỉ mang lại kết quả ổn định xã hội trên mặt nổi. Trái lại, Phật giáo, đặt trên nền tảng giáo lý nhân quả nghiệp báo và thực hành thiền định, đề cao một tinh thần trách nhiệm và tự giác hơn.

Thiền sư Kỷ Hòa cũng phát triển vấn đề đạo đức xã hội, bao gồm tư tưởng yêu nước, một tư tưởng quan trọng nhất của đạo đức Khổng giáo, vào trong phạm trù chân lý cao hơn, cái mà Kỷ Hòa cho là trong Khổng giáo gọi là Đạo. Kỷ Hòa giải thích rằng, trong Phật giáo, có hai loại chân lý: chân lý thuộc chân đế và chân lý thuộc tục đế. Theo ngài, tuy nói là hai, nhưng thực ra chỉ một, vì con người cần phải y vào Tục để đạt Chân (chân lý ấy là Đạo, theo cách gọi của Khổng giáo). Tuy nhiên, đạo đức lấy gia đình làm trung tâm và khuôn sáo của Khổng giáo không thể nào thành tựu cả hai mục đích Tục và Chân này. Cũng theo cách đó, Kỷ Hòa cho rằng những người còn nhiều ràng buộc tham ái thế tục, khó có thể trung thành trọn vẹn với quốc gia, và cũng khó có thể chung thủy với vợ, với con. Chỉ khi nào con người giải thoát và không bị tham dục trói buộc thì mới có thể dám từ bỏ lợi ích của riêng mình để làm lợi ích cho người khác, cho xã hội; tư tưởng này đã hiện diện trong tư tưởng vị nhân sinh của Khổng giáo hay tinh thần từ bi của Phật giáo. Sống ở những nơi thanh vắng núi rừng, sống không gia đình (đời sống của Tu sĩ Phật giáo), không phải là bất hiếu (với cha mẹ) và bất trung (với tổ quốc), mà đó là một cách biểu hiện lòng hiếu thảo và trung kiên cao hơn, nó không bị ngoại cảnh pha tạp. Mục đích của Phật giáo không phải chủ trương xa lánh xã hội hay xa lánh thế gian, mà là để tạo nên một xã hội hoàn thiện hơn.

Không giống như thế kỷ IV và V, khi Phật giáo Trung Quốc mới du nhập vào Hàn Quốc, người Phật tử phải bảo vệ Phật giáo một cách yếu ớt, Thiền sư Kỷ Hòa đã bảo vệ Phật giáo một cách tích cực hơn và thường xiển dương tính ưu việt của Phật giáo. Tuy trước khi trở thành một Tăng sĩ Phật giáo, ông là một Nho sĩ. Trong một đoạn tường thuật về cuộc đời của Thiền sư Kỷ Hòa, cho thấy, ngài bắt đầu quan tâm đến Phật giáo sau cái chết của một người bạn và qua những lần thảo luận với một Tăng sĩ Phật giáo, trong đó, thầy tăng nói về học thuyết của Nho giáo chỉ khuyến giáo mọi nguời phụng dưỡng cha mẹ, ít quan tâm đến tinh thần phục vụ nhân loại và chúng sanh. Từ những tác động đó, ông bắt đầu quan tâm đến lãnh vực bản thể luận và tâm linh. Mặc dù, Kỷ Hòa dường như nhờ thực hành thiền quán, đã đạt đến sự nhận thức tâm linh sâu lắng; nhưng không dừng lại ở những nhận thức thiền quán này, Kỷ Hòa tiến xa hơn để nhận thức được sự đồng nhất trong bản chất của các trường phái triết học và tôn giáo đương thời. Hiệu của ngài là Đắc Thông (Tukt’ong), có nghĩa là sự thông đạt; ngài theo đuổi mục tiêu này một cách bền bỉ, không chỉ trong phạm vi thiền và giáo lý Phật giáo, mà còn mở rộng đến tất cả các học thuyết đương thời. Không quan tâm đến vấn đề trong ba tôn giáo: Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo, tôn giáo cao hơn, thay vào đó, Ngài cảm thấy ba tôn giáo này giống nhau trong bản chất. Theo Kỷ Hòa, học thuyết Vô vi của Lão giáo và học thuyết hành động nhưng thường an định của Khổng giáo không khác tư tưởng “An tịnh nhưng luôn chiếu rọi, chiếu rọi nhưng thường an tịnh” của Phật giáo Thiền tông.

Triết lý dung hòa những tranh luận giáo thuyết giữa các Tông phái Phật giáo của Nguyên Hiểu được Thiền sư Trí Nột kế thừa và phát triển trong triết lý dung hợp Thiền tông và Giáo tông và được Thiền sư Kỷ Hòa kế thừa và áp dụng vào triết lý dung hợp những khác biệt giữa ba tôn giáo: Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo. Truyền thống dung hợp của Phật giáo Hàn Quốc được tiếp tục kế thừa bởi Hưu Tĩnh (Hyujong 1520-1604), người cũng được biết với tên gọi khác là Đại sư Tây Sơn (Sosan Taesa).

Thiền sư Hưu Tĩnh (Hyujong) không những là Thiền sư ảnh hưởng nhất trong thời kỳ Chosôn, mà còn là một trong những Tăng sĩ có ảnh hưởng nhất của lịch sử Phật giáo Hàn Quốc. Ngài không chỉ tiếp thừa triết lý dung hợp các tông phái Phật giáo của Thiền sư Trí Nột, mà còn nỗ lực dung hòa Tam giáo, ở khía cạnh cả ba tôn giáo đều mang cùng một thông điệp chân lý.

Trong giai đoạn của Thiền sư Hưu Tĩnh, các tông phái thuộc Giáo tông hợp nhất thành một tông, gọi là Kyo hoặc Kinh giáo, trong khi các Thiền phái gọi chung với tên gọi đơn giản là Sôn (Thiền tông). Sự xung đột giữa Thiền và Giáo vẫn còn tồn tại trong những tranh luận giáo nghĩa giữa các Tăng sĩ Phật giáo. Ngay tựa đề một số tác phẩm chính của Hưu Tĩnh, chẳng hạn như, Hình Ảnh Trung Thực Của Thiền Tông (Sôn’ga kwigam); Luận Giải Về Thiền (Sôn’gyo sôk); Bí Pháp Về Sôn (thiền) và Kyo (giáo) (Sôn’gyo kyôl), đã minh họa điều mà Hưu Tĩnh quan tâm nhất là làm sao dung hợp Thiền và Giáo, bằng cách hợp nhất Giáo tông vào Thiền tông. Thiền sư Hưu Tĩnh đồng ý đại thể triết lý dung hợp của Trí Nột; tuy nhiên, khác với Trí Nột, Hưu Tĩnh quan tâm đến phương pháp hành trì của Thiền tông hơn và ngợi khen tính vượt trội của Thiền tông. Hưu Tĩnh cho rằng, những nỗ lực hòa giải mâu thuẫn giữa Thiền tông và Giáo tông đã được Thiền sư Trí Nột thực hành, nhiệm vụ của ngài không chỉ xác lập triết lý hòa giải của Trí Nột, mà còn phải thiết lập mối quan hệ đúng đắn giữa hai Tông phái này trong cùng một mục đích thành tựu giác ngộ viên mãn.

Theo Hưu Tĩnh, cả Thiền tông và Giáo tông đều có cùng nguồn gốc từ đức Phật, nhưng một tông (Thiền tông) quan tâm đến tâm chứng của đức Phật, tông kia (Giáo tông) thì quan tâm đến giáo thuyết của ngài. Về mối quan hệ giữa Thiền và Giáo, Hưu Tĩnh khẳng định rằng, Giáo tông là tông phái theo đuổi mục đích siêu vượt ngôn ngữ (chân như) bằng ngôn ngữ, trong khi Thiền tông theo đuổi mục đích siêu vượt ngôn ngữ bằng chính phương pháp siêu vượt ngôn ngữ. Mục đích siêu vượt ngôn ngữ ở đây có nghĩa là bản chất của chân tâm, hoặc trạng thái giác ngộ, trạng thái này không thể đạt được thông qua ngôn từ hay những diễn đạt mang tính luận lý thường tình. Mặc dù thừa nhận cả hai Giáo tông và Thiền tông đều theo đuổi cùng một mục đích giác ngộ, nhưng Hưu Tĩnh lại cho rằng, hành giả không thể thành tựu quả vị viên mãn bằng sự nghiên cứu kinh giáo. Nói chính xác hơn, Hưu Tĩnh cho rằng, chủ trương của Giáo tông, trong lộ trình tu đạo phải bắt đầu với việc nghiên cứu kinh điển, cần được áp dụng và tiếp tục tu trì để thành tựu mục đích cuối cùng là trạng thái siêu vượt ngôn từ. Nói cách khác, theo Hưu Tĩnh, hành giả trước tiên học giáo điển (Kyo), nhưng trong khi hành trì, Kinh giáo (Kyo) cần phải loại bỏ và Thiền định (Sôn) cần phải thực hành. Quan hệ giữa Giáo và Thiền này được trình bày chi tiết trong lý thuyết Sagyo Ipson: nguyên tắc bỏ giáo (Kyo) và vào định (Sôn), nguyên tắc này, hiện nay, vẫn còn được áp dụng trong Phật giáo Hàn Quốc. Theo cách lý giải này, Thiền sư Hưu Tĩnh xem việc nghiên cứu kinh điển là một giai đoạn cần có trong lộ trình tu đạo; tuy nhiên, ngài khẳng quyết thực hành thiền định (Sôn) là yếu tố chính yếu trong lộ trình tu đạo, vì tri thức, từ việc nghiên cứu kinh điển, luôn có những giới hạn của nó. Vì vậy, Hưu Tĩnh phủ nhận khả năng giác ngộ nếu chỉ áp dụng phương pháp của Giáo tông (Kyo). Tất nhiên, không phải hành giả nào cũng cần trải qua hai giai đoạn: nghiên cứu kinh giáo và thực hành thiền định, trong lộ trình tu đạo. Theo Thiền sư Hưu Tĩnh, đối với bậc thượng trí, không cần thiết phải qua hai giai đoạn này, nhưng đối với những người trí năng trung bình và yếu, thì không thể không trải qua giai đoạn học hiểu giáo nghĩa (Kyo), mới thực hành thiền định.

Trong tác phẩm khác, Hình Ảnh Trung Thực Của Tam giáo (Samga Kwigam), Hưu Tĩnh chứng minh ba hệ thống tư tưởng vĩ đại của Á Đông: Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo, chung quy đều đưa đến cùng một chân lý, hoặc Đạo. Sự dung hòa những dị biệt giữa Tam giáo đã được Thiền sư Kỷ Hòa khởi xướng, quan điểm của Kỷ Hòa là quan điểm hợp nhất Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo, đặc biệt là Thiền tông và như thế cuối cùng xiển dương tính ưu việt của giáo lý Phật giáo; quan điểm của Hưu Tĩnh thì khác. Thiền sư Hưu Tĩnh trình bày những tư tưởng cốt yếu và đưa ra những điểm tương đồng giữa ba tôn giáo lớn này. Hưu Tĩnh cho rằng, quan điểm đề cao bất kể một tôn giáo nào đều là quan điểm mang nặng tính phân biệt và bè phái. Trong những luận giải về giáo nghĩa của Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo, Hưu Tĩnh luận giải trên khía cạnh tương đồng chính yếu để dung hòa những khác biệt nhỏ nhặt đưa vào trong bối cảnh tốt đẹp hơn trong sự thống nhất. Phương pháp dung hợp của Hưu Tĩnh có sử dụng phương pháp khai (kae: hiển bày hay mở ra) và hợp (hap: ẩn kín hay khép lại) của Nguyên Hiểu: bằng những biểu hiện sai biệt (khai), những thể dụng khác biệt của chân lý được trình bày, và bằng ẩn hay khép (hợp), những khác biệt được dung hợp vào cùng một thực tại của chân lý. Trong lời kết của tác phẩm Hình Ảnh Trung Thực Của Tam giáo (Samga Kwigam), Hưu Tĩnh trình bày mục đích của ngài là cung cấp một kênh truyền thông vượt qua giới hạn của quan điểm giáo phái. Thiền sư Hưu Tĩnh gọi Tam giáo, như là ba cánh cửa khác nhau cùng đi đến một mục đích viên mãn như nhau. Mục đích này, chân lý tuyệt đối, thường được gọi là Đạo trong truyền thống Á Đông, và không mang ý nghĩa phe phái. Để nhận thức được điều này, tâm nhãn hay trí tuệ là chìa khóa. Triết lý dung hòa của Thiền sư Hưu Tĩnh, một triết lý kế thừa truyền thống dung hợp của lịch sử tư tưởng tôn giáo Hàn Quốc, tiếp tục có ảnh hưởng lớn đối với Phật giáo Hàn Quốc ngày nay.

KẾT LUẬN

Từ khi được truyền vào Hàn Quốc trong giai đoạn cuối thế kỷ thứ IV, Phật giáo đã trải qua ba lần tiếp biến để thích ứng với những yếu tố chủ quan và khách quan. Lần tiếp biến đầu tiên là khi Phật giáo phải đối mặt với tín ngưỡng bản địa, thường được biết như là Tát-mãn giáo; giai đoạn này kéo dài từ lúc Phật giáo mới du nhập đến thời kỳ Tam Quốc. Lần tiếp biến thứ hai là khi Phật giáo Hàn Quốc quan tâm nghiên cứu học thuyết của các Tông phái Phật giáo khác nhau và nỗ lực hòa giải những khác biệt và mâu thuẫn giữa các Tông và phái; giai đoạn này bắt đầu thời kỳ Tân La thống nhất đến thời kỳ Cao Cú Ly (Koryo). Lần tiếp biến thứ ba là khi Phật giáo Hàn Quốc ra sức bảo vệ Phật giáo trước những phê phán và đàn áp của giới Nho sĩ Tân Khổng giáo và chính quyền Tân Khổng giáo trong suốt thời kỳ Chosôn (Lý). Mỗi mô hình của mỗi lần tiếp biến tiêu biểu cho sự thích ứng của Phật giáo trước những mâu thuẫn và xung đột bên trong và bên ngoài Phật giáo, và như một kết quả tất yếu, triết học Phật giáo liên tục phát triển. Trong mỗi lần tiếp biến, triết thuyết mới không làm thay đổi hoàn toàn triết thuyết cũ, mà chỉ là sự kế thừa và lưu giữ toàn bộ triết thuyết của tất cả truyền thống Phật giáo Hàn Quốc.

Thách thức đầu tiên khi Phật giáo mới du nhập vào Hàn Quốc là tín ngưỡng Tát-mãn giáo bản địa, tín ngưỡng này đã giúp hợp nhất những bộ lạc khác nhau thành những vương quốc thống nhất. Phật giáo Hàn Quốc đã thích ứng với tín ngưỡng bản địa bằng cách thiết lập Phật giáo Hộ quốc. Những bài giảng và những buổi lễ của Phật giáo nổi bật tinh thần hộ quốc an dân luôn được diễn giảng và tổ chức trong suốt thời kỳ Cao Cú Ly (một trong ba vương quốc thời Tam Quốc: Bách Tế, Cao Cú Ly và Tân La). Thậm chí, trong thời kỳ Chosôn, khi Phật giáo bị đàn áp, tinh thần Phật giáo hộ quốc vẫn tồn tại trong hình thức khác, như Tăng sĩ thành lập Tăng binh chống lại sự xâm lược của Nhật Bản. Mặc dù tư tưởng Hộ quốc không trở thành một học thuyết vững vàng, nhưng tinh thần này luôn hiện hữu trong suốt chiều dài phát triển của Phật giáo Hàn Quốc.

Trong lần tiếp biến thứ hai, Phật giáo mang đặc thù Hàn Quốc, hai ngài Nguyên Hiểu và Trí Nột đóng vai trò chủ đạo trong giai đoạn này. Trong giai đoạn của Nguyên Hiểu, những kinh sách quan trọng của Phật giáo, cũng như học thuyết của một số Tông phái Phật giáo Trung Hoa được truyền vào Hàn Quốc. Nguyên Hiểu, bằng phương pháp khai (kae: hiển bày hay mở ra) và hợp (hap: ẩn kín hay khép lại) và hòa tránh (hòa hợp và tranh luận), đã hòa giải những tranh luận giữa học thuyết và các Tông phái Phật giáo khác nhau. Với quan điểm đó, Nguyên Hiểu không chấp nhận hoàn toàn và cũng không phủ nhận hoàn toàn học thuyết của bất kỳ Tông phái nào. Mặc dù không chấp nhận hoàn toàn bất kỳ một học thuyết cụ thể nào, tuy nhiên, ngài thừa nhận tất cả các học thuyết đều quy về Duy Thức (One Mind) hay Phật tánh. Trong cách khác, bằng cách lập luận ẩn kín hay khép lại (hợp), Nguyên Hiểu đã dung hợp tất cả vào cùng một mục đích rốt ráo của chân lý. Phương pháp này phản ánh tinh thần chính yếu của Phật giáo Hàn Quốc, quan tâm đến khía cạnh tương đồng hơn là tìm xét khía cạnh dị biệt trong Phật giáo cũng như trong các tôn giáo khác. Như vậy, đặc điểm đầu tiên của Phật giáo Hàn Quốc, Phật giáo Thông đạt bắt đầu với Nguyên Hiểu. Đến giai đoạn Koryo (Cao Ly), nổi bật nhất là Thiền sư Trí Nột, người đã luôn nỗ lực hòa giải những mâu thuẫn giữa Thiền tông và Hoa Nghiêm tông, một tông phái tiêu biểu cho Giáo tông trong lịch sử Phật giáo Hàn Quốc. Để đưa ra một phương pháp mới, Trí Nột phải nghiên cứu tường tận giáo thuyết của Hoa Nghiêm tông và phương pháp hành trì tương phản giáo nghĩa Hoa Nghiêm tông của Thiền tông.

Lần tiếp biến thứ ba là khi Phật giáo phải đối diện với những thách thức của Tân Khổng giáo, một tôn giáo lãnh đạo đời sống tinh thần và xã hội trong thời đại Chosôn. Thiền sư Kỷ Hòa và kế tiếp là Thiền sư Hưu Tĩnh, đã nỗ lực áp dụng phương pháp dung hòa giữa Thiền và Giáo của Thiền sư Trí Nột, để tạo ra một triết lý dung hòa ba tôn giáo: Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo, đang có ảnh hưởng lớn tại Hàn Quốc cũng như tất cả các nước Á Đông. Kế thừa phương pháp luận của Nguyên Hiểu và Trí Nột, Hưu Tĩnh cho rằng mỗi tôn giáo là một con đường đi đến cùng một mục đích, mục đích đó là Đạo.

Trong nửa đầu thế kỷ XX, Phật giáo và nhân dân Hàn Quốc cùng chung số phận bị Nhật Bản xâm chiếm và đô hộ. Trong suốt thời gian này, từ 1910 đến 1945, nhiều Tăng sĩ Phật giáo, như ngài Yongsong (1864-1940), ngài Hanyong (1870-1948) và ngài là Manhae (1879-1944) đã tích cực tham gia vào những hoạt động chính trị. Những hoạt động từ bỏ sự thực hành tâm linh nơi thanh vắng, hòa nhập vào cuộc sống thế tục (hoạt động chính trị) này là hành động mang tinh thần Bồ-tát, một tinh thần dấn thân để làm xoa dịu những thống khổ của nhân sinh. Vì Phật giáo phải dấn thân vào những hoạt động thế tục, nên việc nghiên cứu giáo điển bị đình trệ. Những Tăng sĩ ham thích nghiên cứu giáo điển phải ghi danh và du học tại các trường Đại học ở Nhật Bản. Tăng sĩ Nhật Bản lại xuất dương du học tại các nước châu Âu, như: Anh, Đức, Pháp. Rồi họ ứng dụng những kiến thức mới của châu Âu vào hệ thống giáo dục của Phật giáo Nhật Bản và trong quá trình chuyển tiếp đó, triết học Phật giáo Nhật Bản có những thay đổi đáng kể. Các Tăng sĩ Hàn Quốc du học tại Nhật Bản được truyền đạt những phương pháp và kiến thức này và lại giới thiệu nó vào Hàn Quốc. Từ đó, Phật giáo bắt đầu được giảng dạy tại các trường đại học ở Hàn Quốc. Giai đoạn này đánh dấu một sự phân định giữa Tăng sĩ Phật giáo và học giả Phật giáo, đây là bước chuyển biến quan trọng, phản ánh một giai đoạn Phật giáo mang tính học thuật cao.

Trong hai thập niên 1970 và 1980, triết học Phật giáo bắt đầu xuất hiện trở lại với một phong thái và sinh lực mới. Lúc bấy giờ, Phật giáo bị tác động từ yếu tố bên ngoài và cả bên trong. Bên ngoài, Phật giáo Hàn Quốc phải đối mặt với những thử thách mới từ phương Tây, cụ thể là Cơ Đốc giáo và triết học phương Tây. Bên trong, sự phân định giữa Tăng sĩ Phật giáo và học giả Phật giáo ngày càng rõ nét. Trong thập niên 1980, Phật giáo đã có một cuộc tranh luận giữa Tăng sĩ và học giả Phật giáo xoay quanh vấn đề “Đốn ngộ” và “Tiệm tu”. Mặc dù, cuộc tranh luận này tập trung vào những xung đột giữa hành giả và học giả, mà nổi bật nhất là giữa Thiền tông và Giáo tông, nhưng vì những tác động bên ngoài và bên trong Phật giáo trong giai đoạn mới đã tạo nên điểm nổi bật mới cho tư tưởng Phật giáo Hàn Quốc trong thời đại mới. Cuộc tranh luận này không chỉ lan rộng khắp Hàn Quốc mà còn lan rộng ra phạm vi quốc tế. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, Phật giáo Hàn Quốc vẫn chưa tìm ra một giải pháp thích hợp cho những mâu thuẫn giữa những người chú trọng phương pháp trực chỉ chân tâm (của Thiền tông) và những người có quan điểm cho rằng cần phải am hiểu giáo điển trước khi tu trì. Có lẽ những mâu thuẫn này khó có thể giải quyết và điều này có thể là sự phản ánh của thời đại chúng tôi. Vậy giải pháp nào là giải pháp hiệu quả nhất cho những vấn đề mâu thuẫn này? Phật giáo Thông đạt (do ngài Nguyên Hiểu xướng lập) có thể là một giải pháp hữu hiệu và đã được áp dụng thành công trong quá khứ. Phật giáo Hàn Quốc cũng có thể tìm một giải pháp khác để theo đuổi trong lãnh vực học thuật của Phật giáo, điều mà nó đang biểu hiện hoặc họ cần tìm ra một biện pháp bao quát những dị biệt để giải quyết những mâu thuẫn, biện pháp này không thuộc Phật giáo Thông đạt. Thời gian là giải pháp hay, tất nhiên, bất kỳ một giải pháp nào hướng đến mục đích giải quyết những khó khăn hiện tồn của Phật giáo Hàn Quốc cũng đều rất cần thiết.

Tuệ Giác dịch
Theo Buddhist philosophy, Korean của Sungtaek Cho.
Tập san Pháp Luân - số 76, tr52, 2011]