Ngọn đèn vô tận

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Ví như một ngọn đèn có thể được dùng để mồi sáng hàng trăm ngọn đèn khác, do đó bóng tối sẽ được soi sáng và ánh sáng này sẽ vô tận. (Duy-ma-cật)

Bằng tất cả niềm tin vào Chánh pháp, vận dụng phương tiện thiện xảo để chuyển hóa những tâm hồn còn đang đắm chìm trong vũng lầy của si mê tham dục, Kinh Duy-ma-cật đưa ra mô hình giáo hóa thật đặc biệt. Với trí tuệ siêu việt, Duy-ma-cật đã làm cho Ma Ba-tuần và toàn thể ma nữ đều cải tà quy chánh. Ông còn giáo hóa họ, làm cho họ “phát tâm Bồ đề, có thể tìm thấy niềm vui nơi pháp thay vì ngũ dục thế gian”.

Sau khi đưa ra một loạt các phương thức tu tập để có niềm vui với Chánh pháp, các thiên nữ đều tỏ lòng tôn kính theo Duy-ma-cật tu tập.

Các thiên nữ hỏi Duy-ma-cật: “Ở ma cung chúng tôi, chúng tôi phải sống như thế nào?”

Duy-ma-cật đáp: “Này các chị, có pháp môn được gọi là ngọn đèn vô tận; các chị nên học. Ví như một ngọn đèn có thể được dùng để mồi sáng hàng trăm ngọn đèn khác, do đó bóng tối sẽ được soi sáng và ánh sáng này sẽ vô tận. Cũng vậy, các chị, một Bồ-tát hướng dẫn và chuyển hóa hàng trăm ngàn người khác khiến cho họ phát tâm cầu giác ngộ tối thượng; mà đạo ý của Bồ-tát không hề tắt ngúm. Cứ mỗi lần thuyết Pháp là mỗi lần tăng thêm tất cả pháp thiện cho mình. Cho nên gọi là Vô tận đăng. Dù các chị có ở nơi cung điện của ma, các chị hãy nên dùng pháp Vô tận đăng này để dẫn dắt vô lượng con trai, con gái của trời khiến phát tâm cầu giác ngộ, vừa để báo ơn Phật vừa làm lợi ích chúng sanh”.

Từ khi đức Thế Tôn thành tựu đạo quả dưới cội Bồ-đề, ánh sáng giác ngộ của Ngài được lưu truyền rộng rãi khắp nơi và phát triển cho đến ngày nay. Điều này không phải ngẫu nhiên có được mà là một quá trình hoằng hóa kế thế của chư vị Tổ sư. Và giờ đây, làm thế nào để cho ánh sáng Chánh pháp tồn tại và phát triển trên thế gian này, đó là nỗi lòng cưu mang đầy trĩu nặng của những bậc tôn túc có tâm huyết cho sự hưng vong của đạo pháp. Bởi lẽ, muốn thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp, những vị sứ giả Như Lai không chỉ đơn thuần bằng trí năng mà còn phải bằng cả tâm-hạnh-nguyện của chính mình. Qua bao biến cố thăng trầm phong ba của lịch sử, có lúc ngọn đèn Chánh pháp dường như tắt lịm trước trận cuồng phong tàn bạo, nhưng rồi ngọn đèn huyền diệu ấy vẫn hiện hữu giữa cõi đời. Qua mỗi biến cố, ngọn đèn như được tăng thêm năng lượng để thắp sáng. Năng lượng kì diệu ấy, cứ lần lượt được trao truyền từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế khác. Đó chính là tính kế thừa mang yếu tố quyết định trong việc duy trì và phát triển mạng mạch Phật pháp, thế nên mỗi người con Phật cần phải ý thức về trách nhiệm thiêng liêng cao cả này.

Thực tế mà nói, giáo lý nhà Phật có nhiều đóng góp thiết thực vào đời sống xã hội ở những nơi mà Phật giáo đã và đang chung sống. Điều này lịch sử nhân loại không thể chối từ. Người con Phật hoằng truyền Chánh pháp không vì những ích lợi cá nhân mang tính vụ lợi mà vì hạnh nguyện độ sanh, sẵn sàng dấn thân vào hiểm nguy không hề từ nan trước bao khó nhọc, thậm chí hy sinh cả tánh mạng mình. Và giờ đây, sự hoằng truyền Chánh pháp không chỉ mang cả tính tiếp nối hạnh nguyện, ngoài ra còn thể hiện lòng tri ân, báo ân đối với các bậc tiền nhân.

Đức Bổn sư chúng ta đã thực hành vô lượng hạnh nguyện, bỏ đầu mắt tủy não như bỏ đàm dãi, coi ngai vàng như đôi dép rách bên đường, để dấn thân tìm ra con đường giác ngộ giải thoát cho tự thân và tha nhân, thể hiện tính khả thi mà mỗi con người luôn luôn có, có khả năng thành Phật, có khả năng giác ngộ của mỗi hữu tình. Làm cho ngọn đèn Chánh pháp luôn tỏa sáng, đó tức là kế thừa cả di sản vô giá mà những trân bảo trên cuộc đời này không thể nào sánh được. Vì vậy, lẽ nào người hậu thế không đón nhận gia tài đồ sộ của cha ông đã để lại mà đi làm kẻ tiểu phu thấp hèn hay sao? Chúng ta chỉ có quyền tự hào chớ không được ỷ lại vào di sản của cha ông; vì tất cả những thứ ấy sẽ trở thành sản phẩm của lịch sử nếu như chúng ta không đủ tư cách, tài đức để kế nghiệp. Cho nên, muốn thành tựu hạnh nguyện tự thân cũng như để đáp đền ân đức của đức Như Lai, mỗi người con Phật cần phải kiện toàn tài đức, cùng nhau làm ích lợi thăng hoa cho cuộc đời.

Trong kinh văn, Duy-ma-cật ân cần phó chúc cho chính cả Ma Ba-tuần cũng như các ma nữ, đây là một thế lực không cùng tồn tại trong môi trường của Chánh pháp. Thế nhưng khi đã thuần hóa họ, Duy-ma-cật còn giao trọng trách cho họ là phải truyền bá giáo pháp của đức Như Lai; huống chi những người mang dòng họ Thích, và đã bao năm mang trong mình chí nguyện làm lợi lạc hữu tình. Duy-ma-cật, chính là mô hình gương mẫu, là người đã thay thế cho Phật để truyền trao Phật pháp. Thật cao cả thay, chính ngay những người chống đối, hãm hại mình mà đức Phật vẫn luôn mở rộng đại từ tâm để đón nhận. Điều đó thể hiện rõ mục đích xuất hiện của Ngài. Sự xuất hiện của Ngài trên cõi đời này không gì khác hơn là dùng năng lực tự thân chứng ngộ, rồi sau đó giúp đỡ con người có được cuộc sống hạnh phúc chân thật. Hạnh phúc chân thật ấy luôn tiềm ẩn trong mỗi con người, nhưng vì tâm thức có quá nhiều tham dục u tối nên không thể nhận ra. Và mỗi khi ngọn đèn Chánh pháp được thắp lên thì bao nhiêu bóng tối của vô minh đều được tiêu trừ. Mỗi cá nhân thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp là tự thân mình thắp sáng hiện hữu chính mình, làm cho bản thân mình trước nhất được an lạc. Nhân tố này sẽ là tiền đề để phát huy những điều tốt đẹp cho những người kế tiếp.

Từ đây, chúng ta không còn sợ Chánh pháp bị mai một; những công hạnh của các bậc tiền bối sẽ không trôi vào quên lãng, vì đã có những người hậu thế tiếp nhận và phát huy được những việc làm của thế hệ trước. Ngọn đèn vô tận sẽ được thắp lên bằng nhiều nguồn năng lượng khác nhau, năng lượng tình thương, trí tuệ, hạnh nguyện của người con Phật.

Từ đây, khoảng cách giữa thế hệ này và thế hệ khác hiểu nhau hơn, thế hệ trước tin tưởng vào khả năng của thế hệ sau hơn, và những người sau có nhiều cơ hội kế thừa những kinh nghiệm quý báu của các bậc tiền nhân đã để lại. Điều đó được vận hành theo quy luật tất yếu, nếu như giữa người này với người khác, thế hệ này với thế hệ khác đều có sự nối kết chặt chẽ với nhau thì sự thanh tịnh, hòa hợp của Tăng đoàn càng thêm vững mạnh, sẽ kiện toàn được nguồn năng lực từ nội dung đến hình thức.

Mặt khác, phương pháp Vô tận đăng còn nhấn mạnh mô hình tu tập của người Phật tử tại gia. Chánh pháp của Phật còn tồn tại đến ngày hôm nay là do sự đoàn kết hòa hợp của tất cả bốn chúng đệ tử Phật. Trong đó, Phật tử là một phần tử nắm giữ vai trò hết sức trọng yếu. Ngoài trách nhiệm gia đình, xã hội và tạo dựng cuộc sống vật chất ra, người Phật tử còn phát huy yếu tố tâm linh nội tại. Sống giữa cuộc đời nhưng không bị đời làm hoen ố ngược lại còn tỏa hương thơm cho đời. Đây là một lối sống lý tưởng không dễ thực hiện, đòi hỏi người Phật tử cần có một nghị lực vững chãi và có một niềm tin bất hoại đối với Chánh pháp.

Tiếp nối ngọn đèn Chánh pháp là đồng nghĩa góp phần trao cho đời những giá trị chân thật của cuộc sống. Vì trong cuộc đời, nhất là cuộc sống cơ giới hiện nay, đa phần con người dễ có xu hướng sống theo bản năng, nếu như không có một định hướng cho đời mình, không sống một cuộc sống có ý nghĩa thì dễ dàng rơi vào cạm bẫy của khổ đau. Dùng hạnh nguyện của tự thân để cho người nhận thức được giá trị đích thực của Chánh pháp là điều cần thực hiện của một hành giả học Phật. Chính giá trị chân thật này là nguyên nhân, là động lực cần thiết cho con người tô điểm hương sắc cuộc đời. Muốn làm được điều đó, người truyền trao phải có chất liệu thật sự, phải có tâm nguyện lợi tha, và tất nhiên người tiếp nhận cũng phải có tấm lòng đồng điệu, tương ứng.

Tịnh Lạc.
[Tập san Pháp Luân - số 4, tr.]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.