Đề nghị thuyết phân kỳ Phật giáo Việt Nam

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Thuyết phân kỳ đã được những nhà chuyên môn giới thiệu qua nhiều hình thức cũng như tham gia bàn cãi chung quanh vấn đề nầy, tuy nhiên cho đến nay vấn đề còn đang bỏ ngỏ.

Nay, vì tính căn bản thiết yếu cho nhu cầu nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam, chúng tôi đề ra một Thuyết phân kỳ cho Phật giáo Việt Nam. Đây là bước đầu góp phần cho việc biên soạn khoa giáo lịch sử Phật giáo Việt Nam mà mục đích chính là nhằm cung cấp giáo án cho các Trường Trung cấp Phật học. Còn việc đề ra một mô hình hoàn chỉnh cho vấn đề này, thì đó là việc còn đang trông chờ ở những nhà chuyên môn về sau. Nay Thuyết phân kỳ cho Phật giáo Việt Nam được giới thiệu như sau:

1. Mô Hình Phân Kỳ Phật giáo Việt Nam

Có nhiều mô hình Thuyết phân kỳ Phật giáo Việt Nam, qua những sách đã xuất bản có thể xếp vào 5 nhóm như sau:

* Phân chia theo dòng phái.

Phân kỳ theo dòng phái, Thông Biện (?-1134) khi biên soạn TUTA đã giới thiệu mô hình nầy.

* Phân chia theo triều đại.

Nhiều nhà chuyên môn đã giới thiệu theo mô hình nầy như An Thiền-Phúc Điền (1790-1860), Đạo giáo nguyên lưu, thư viện Hán Nôm Hà Nội; rồi Trần Văn Giáp, Le Boudhisme au Annam, Paris 19; rồi Thích Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử lược, Hà Nội 1943; rồi Thích Tuệ Sĩ, Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ 13, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn 1968; rồi Thích Minh Tuệ, Lược sử Phật giáo Việt Nam, THPG TP.HCM-1993; Thích Đức Nhuận, Đạo Phật và dòng sử Việt, Phật học Viện quốc tế California, Hoa Kỳ ấn hành 1998.

* Phân chia theo sự kết hợp dòng phái và triều đại.

Phân kỳ theo sự kết hợp dòng phái và triều đại. Đây là mô hình đã được giới thiệu bởi Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận T1, Lá Bối, Sài Gòn 1971.

* Phân chia theo thế kỷ.

Đây là mô hình phân kỳ theo thế kỷ như phân ra: Thời kỳ Bắc thuộc 1000 năm đầu (thời mới vào đến thời độc lập nhà Đinh); Thời hoàng kim Lý-Trần thế kỷ 11-14; Phật giáo Nam-Bắc Hà Trịnh-Nguyễn phân tranh (thế kỷ 16-17); 300 năm Phật giáo Sài Gòn-Gia Định-TP HCM; v.v…

* Phân chia theo biến cố lịch sử.

Đây là một hình thức phân kỳ theo biến cố lịch sử. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam T1, 2, 3 đã giới thiệu mô hình nầy. Theo đây Giáo sư trình bày Thuyết phân kỳ Phật giáo theo quá trình phát triển của dân tộc. Qua đó 2000 năm Phật giáo Việt Nam được phân chia trên cơ sở 5 giai kỳ:

1- Cuộc chiến tranh Hoa Việt năm 39-43,

2- Việc xưng đế của Lý Bôn vào năm 544,

3- Việc Lý Thánh Tông sáp nhập ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính vào bản đồ Đại Việt vào năm 1069,

4- Việc vua Trần Nhân Tông sáp nhập hai châu Ô Lý vào năm 1306, và

5- Việc chúa Nguyễn Phúc Chu gởi tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào thiết lập chính quyền Việt Nam tại Sài Gòn vào năm 1698. Rồi bên cạnh hình thức phân kỳ, Giáo sư còn kèm theo một tên gọi cho từng thời kỳ đó như: Thời kỳ Phật giáo quyền năng, Thời kỳ Phật giáo vận động độc lập, Thời kỳ Phật giáo thế sự, Thời kỳ Phật giáo cư trần lạc đạo và Thời kỳ Phật giáo quần chúng. Tuy nhiên, việc giới thiệu nầy còn bỏ ngỏ mà chưa cho người học sau một chân dung chi tiết về phân kỳ Phật giáo Việt Nam.[1] 

Bên cạnh đó còn phải nói đến một Mai Thọ Truyền, Le Bouddhisme au Việt Nam, Sài Gòn 1962; Thích Thiện Hoa, 50 năm chấn hưng Phật giáo, VHĐ Sài Gòn-1970; Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Tu viện Chơn Không-1973; Thích Thiên Ân, Zen Buddhism and Nationlism in Viet Nam, Los Angeles 1973; v.v… Đó là những nhà chuyên môn đã góp phần hoàn chỉnh Thuyết phân kỳ Phật giáo Việt Nam.

2. Nhận định về mô hình phân kỳ 5 điểm ở trên

a. Phân chia theo Dòng Phái. Phân chia theo dòng phái, mô hình nầy có lợi điểm là nói lên được tính chất Phật giáo tông môn, truyền thống Tổ đạo, nét đặc thù của pháp môn tu tập. Tuy nhiên, Phật giáo dòng phái không hiện hữu trong suốt chiều dài lịch sử 2000 năm. Do vậy, cách phân kỳ theo Dòng-Phái cũng có mặt giới hạn của nó.

b. Phân chia theo triều đại. Dưới thời phong kiến, cơ chế triều đại có ảnh hưởng hầu như chủ đạo toàn bộ vận hành sinh hoạt xã hội, mà trong đó nó chi phối không nhỏ vận mạng thịnh, suy của Phật giáo. Những kỳ quan Phật giáo còn đến ngày nay cũng như những pháp nạn kinh hoàng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam và lịch sử Phật giáo thế giới; tất cả chúng đều có quan hệ đến các triều đại vua, chúa phong kiến. Tuy nhiên, cũng có những giai kỳ mà sự chuyển biến của triều đại không để lại dấu ấn lớn lao nào cho Giáo hội cả. Cho nên phân kỳ Phật giáo theo triều đại cũng chưa phải là mô hình thích hợp lắm.

c. Phân chia theo sự kết hợp dòng phái và triều đại. Phân chia theo sự kết hợp dòng phái và triều đại. Mô hình nầy có những ưu điểm. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng cần bổ xung một số mặt khác để được đầy đủ hơn.

d. Phân chia theo thế kỷ. Lịch sử là một chuỗi sự kiện diễn biến liên tục, trong khi đó hình thức thế kỷ là khung chết cứng. Do vậy không thể gượng ép đem biến cố lịch sử mà đặt vào khung thế kỷ được.

e. Phân chia theo biến cố lịch sử. Biến cố lịch sử đã tạo nên thời đại, cho nên phân kỳ Phật giáo Việt Nam dựa theo mô hình biến cố lịch sử là cách phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, bên cạnh mỗi giai kỳ Phật giáo Việt Nam cũng cần có một tên gọi tiêu biểu đi kèm theo, để qua đó người nghiên cứu có thể hình dung được tính chất Phật giáo của thời kỳ đó.

3. Đề nghị Thuyết phân kỳ

Từ mô hình phân kỳ lịch sử Phật giáo Việt Nam đến nhận định về mô hình phân kỳ lịch sử Phật giáo Việt Nam, qua đó 2000 năm Phật giáo Việt Nam (từ thời mới vào đến nay) có thể trình bày qua 6 giai kỳ (xem cột phân kỳ). Mỗi giai kỳ có một tên gọi tiêu biểu cho thời kỳ đó (xem cột tên gọi). Rồi mỗi phân kỳ lại chia ra nhiều chi tiết nhỏ (xem cột chi tiết phân kỳ), bên cạnh đó là thông tin thời gian (xem cột năm). Nay Thuyết phân kỳ Phật giáo Việt Nam được đề nghị theo bản biểu như sau:

Phân kỳ Tên gọi Chi tiết phân kỳ Năm
1
000-980
Thâu hóa sáng tạo Phật giáo quyền năng
(từ thời mới vào đến Giáo học)
Phật giáo dung hợp Thiền-Mật-Tịnh
(từ Giáo học đến Thiền phái)
Phật giáo vận động độc lập
(từ Thiền phái đến Giáo hội)
000-300

300-544

544-981
2
981-1306
Thâu hóa sáng tạo Phật giáo Vạn Hạnh
(Gầy dựng khuông mẫu nước Việt)
Phật giáo Thái Tông
(Phát huy bản sắc dân tộc Việt)
891+

1226+
3
1306-1698
Phật giáo Trúc Lâm-Yến Tử Phật giáo Nhân Tông-Giác Hoàng
(Phật hóa nhân gian)
Phật giáo  Lương Đăng[2]
Phật giáo Minh Châu (Hương Hải)
(Xây nền Phật giáo Nam-Bắc Hà-Phục hưng)
1306+

1428+

1528+
4
1698-1920
Phật giáo đối kháng trước sự xâm lược của phương Tây Phật giáo Nguyên Thiều
(Phật giáo Đất Phương Nam)
Phật giáo Tiên Giác-Hải Tịnh
(Hệ thống hóa tổ chức Phật giáo lần 1)
1689-

1698+
5
1920-1981
Hệ thống hóa tổ chức Phật giáo Phật giáo Lê Khánh Hòa
(Thống nhất Phật giáo lần 1, 1951)
Phật giáo Thích Quảng Đức
(Pháp nạn Ngô Đình Diệm-63)
Phật giáo đại chúng
(Thống nhất Phật giáo lần 2, 1964)
1920-1963

1963

1964-1981
6
1981+
Phật giáo Cư Trần Lạc Đạo    


Đề nghị bước đầu một Thuyết phân kỳ Phật giáo Việt Nam như thế, kế đến là cần mở ra buổi tham luận để qua diễn đàn có sự tham gia của nhiều giới, còn việc đi đến nhất quán về Thuyết phân kỳ Phật giáo Việt Nam đó là việc của nhà chuyên môn.

Phụ lục bản phân kỳ Phật giáo Việt Nam của Giáo sư Lê Mạnh Thát:

Phân kỳ Giai kỳ Tên gọi
1- 39-43 Cuộc chiến tranh Hoa - Việt Phật giáo quyền năng
2- 544 Việc xưng đế của Lý Bôn Phật giáo vận động độc lập
3- 1069 Việc Lý Thánh Tông sáp nhập ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính vào bản đồ Đại Việt Phật giáo thế sự
4- 1306 Việc vua Trần Nhân Tông sáp nhập hai châu Ô - Lý Phật giáo cư trần lạc đạo
5- 1698 Việc chúa Nguyễn Phúc Chu gởi tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào thiết lập chính quyền Việt Nam tại Sài Gòn Phật giáo quần chúng


Chú thích:
[1] Lê Mạnh Thát, lịch sử Phật Giáo Việt Nam T2, tr.20
[2] Nguyễn Trãi phê bình Lương Đăng rằng đem nghi lễ nhà chùa mà dùng cho Thiên tử. Lê Mạnh Thát, Chân Nguyên toàn tập.

[Tập san Pháp Luân - số 4, tr.]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.