Phật giáo là tôn giáo phát triển nhanh nhất trong các nhà giam

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp, năm 1997, số Phật tử trong các nhà giam ở Anh và xứ Wales là 226 người. Đến cuối tháng 6 năm 2008, số lượng Phật tử tăng 669%, lên 1.737 người, chiếm tỉ lệ 2% trong tổng số 79.734 tù nhân - 41.839 người theo Cơ Đốc giáo, 9.795 người theo Hồi giáo, 27.710 người không có tôn giáo, hoặc có tư tưởng vô thần, hoặc theo chủ nghĩa bất khả tri; số tù nhân còn lại theo Do Thái giáo, Ấn giáo, Silk giáo…

 

Phật giáo là tôn giáo phát triển nhanh nhất với số lượng người theo đạo Phật tăng 8 lần trong thập niên qua tại các nhà giam ở Anh quốc.

Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp, năm 1997, số Phật tử trong các nhà giam ở Anh và xứ Wales là 226 người. Đến cuối tháng 6 năm 2008, số lượng Phật tử tăng 669%, lên 1.737 người, chiếm tỉ lệ 2% trong tổng số 79.734 tù nhân - 41.839 người theo Cơ Đốc giáo, 9.795 người theo Hồi giáo, 27.710 người không có tôn giáo, hoặc có tư tưởng vô thần, hoặc theo chủ nghĩa bất khả tri; số tù nhân còn lại theo Do Thái giáo, Ấn giáo, Silk giáo…

Trong số 1.737 người Phật tử này, có 1.194 người da trắng, hầu hết trên 30 tuổi, 78 người phái nữ; và 621 người lãnh án từ 4 năm tù trở lên, 521 người lãnh án tù chung thân.

Những số liệu thống kê này cho thấy, hầu hết những người tù theo Phật giáo chỉ trở thành Phật tử sau khi họ bị giam trong tù. Họ chọn Phật giáo trong số nhiều tôn giáo khác để làm điểm tựa tinh thần, vì họ tin rằng thiền định của Phật giáo có khả năng giúp họ đương đầu với tình trạng bị giam giữ.

Huân tước Avebury, thượng nghị sĩ đảng Dân chủ Tự do, người bảo trợ Tổ chức Giáo úy Phật giáo Angulimala, phát biểu với tờ Nhật báo Telegraph: “Con số Phật tử tăng nhanh này rất đáng chú ý. Tôi nghĩ, một trong những nguyên nhân mà họ trở thành Phật tử là vì khi họ ngồi tù, lời dạy của đức Phật thật sự cần thiết cho họ. Phật giáo giúp họ biết cách chấp nhận và thích nghi với tình cảnh của mình. Phật giáo có khả năng giúp con người thoát khỏi những tư tưởng tham muốn vật chất tầm thường. Và người đang ngồi tù, họ không thể thực hiện những tham muốn này. Khi ấy, họ sẽ có nhiều thời giờ tự phản tỉnh và thiền định để loại bỏ những ý niệm về cái tôi ích kỷ của họ.”

Ông nói tiếp: “Theo tôi nghĩ, thực hành thiền định sẽ giúp họ rất nhiều sau khi họ mãn hạn tù. Tư tưởng chủ đạo của Phật giáo là không gây hại cho bất kỳ chúng sinh nào và những ai triệt để duy trì tinh thần này của đức Phật thì gần như cuộc sống của họ hoàn toàn hồi sinh, điều đó có nghĩa là họ ít có nguy cơ tái phạm tội ác.”

Huân tước Avebury cho rằng, sự hướng dẫn và quan tâm của các giáo úy Phật giáo trong nhà tù cùng với sự thiết lập nhiều khu vực thiền quán và lễ bái (Buddha Grove) trong các trại giam sẽ ngày càng có nhiều tù nhân thực hành theo pháp Phật và trở thành Phật tử. “Chúng tôi có một buổi lễ thường niên tại Spring Hill (một nhà tù mở tại Buckingham – nơi Buddha Grove đầu tiên được thành lập). Quả thật, đó là một địa điểm đáng chú ý vì sự yên tĩnh tuyệt vời của nó. Nhân viên quản giáo và các tù nhân thường đến đây thực hành thiền định”, ông nói.

Người phát ngôn của Ban quản giáo trại giam nhận định: “Ban quản giáo trại giam đánh giá cao vai trò tích cực của các tôn giáo trong việc phục hồi nhân cách của tù nhân. Chúng tôi sẽ tiếp tục cho phép tù nhân thực hành tâm linh theo truyền thống tôn giáo của họ. Mỗi nhà giam có một Ban giáo úy đại diện nhiều tôn giáo và giáo phái, để đáp ứng nhu cầu tôn giáo cho các tù nhân và nhân viên quản ngục. Ban giáo úy này gồm nhiều tu sĩ và tình nguyện viên từ khắp các tôn giáo và giáo phái khác nhau.”

Các tổ chức Phật giáo hỗ trợ những Phật tử trong các trại giam này tin rằng sự phát triển tâm linh nhờ thực hành thiền quán trong thời gian ngồi tù sẽ rất hữu ích cho họ sau khi họ mãn hạn tù. Sức mạnh tâm linh này sẽ có khả năng ngăn ngừa sự tái phạm của họ.

Trong những năm gần đây, các tổ chức giáo úy Phật giáo Anh quốc đã thiết lập nhiều khu vực thực hành tâm linh, thường được biết với tên gọi Buddha Groves, trong một số trại giam và bệnh viện an dưỡng, trong đó có bệnh viện Boardmoor. Những tổ chức giáo úy này phân bố đều trên khắp các nhà giam Anh quốc. Bên cạnh đó còn có cả một mạng lưới rộng khắp quốc gia gồm nhiều tu sĩ Phật giáo phục vụ cho công tác hoằng pháp.

Theo số liệu chính thức, tại Anh quốc có 149.157 người theo Phật giáo, chiếm tỉ lệ 0.26% dân số.

Theo Martin Beckford,
thông tín viên chuyên trách tôn giáo của báo Telegraph, Anh Quốc

Maika dịch
[Tập san Pháp Luân - số 64, tr93, 2009]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.