Ấn Độ: Thỉnh nguyện thư yêu cầu chính phủ Ấn Độ công nhận ngày Phật đản là ngày lễ chính thức của quốc gia

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Kandy, Sri Lanka – Phật giáo đồ khắp nơi trên thế giới đang hân hoan chuẩn bị đón mừng đại lễ Phật đản, Phật lịch 2550, nhân sự kiện thiêng liêng này, ông Kenand Visakha Kawasaki gởi thỉnh nguyện thư đề nghị chính phủ Ấn Độ ban hành nghị quyết công nhận Lễ Phật đản là ngày lễ lớn và chính thức của quốc gia. Trong một bức thư gửi đến thủ tướng Manmohan Singh, ông bà Ken Visakha Kawasaki nói rằng, thật là một điều đáng ngạc nhiên khi tại đất nước Ấn Độ không có ngày lễ chính thức để mừng Phật đản (Vesak). 

 

Sau đây là nguyên văn của bức thư yêu cầu:

Kính gửi thủ tướng Ấn Độ, ông Manmohan Singh!

Kính thưa ngài thủ tướng,

Vào tháng 12 năm 1999, Liên Hiệp Quốc đã ban hành nghị quyết công nhận ngày đức Phật đản sanh (Vesak) là ngày lễ chính thức của Liên Hiệp Quốc. 

Vào ngày 15 tháng 5 năm 2000, học giả cao tăng người Mỹ, Tỳ-kheo Bodhi, đã lên tiếng đại diện cho tất cả Phật tử và những người yêu kính, quý trọng thông điệp uyên thâm và hòa nhã của đức Phật, ông đã phát biểu trước Liên Hiệp Quốc vào ngày lễ chính thức mừng Phật đản rằng:

“Từ thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch, đức Phật đã từng là Ngọn Đuốc của châu Á, một vị Đạo sư mà giáo pháp của Ngài đã sáng rực cả một vùng, trải khắp từ  thung lũng Kabul đến xứ sở Nhật Bản, từ Sri Lanka lên tận Siberia. Nhân cách siêu phàm của đức Phật đã  khai mở một nền văn minh được hướng dẫn bằng những lý tưởng đạo đức cao thượng và nhân bản, và đã đưa đến một truyền thống tâm linh rực rỡ làm cho cuộc sống của hằng triệu người trở nên thanh cao với những ước mơ siêu việt. Hình dáng thanh nhã của đức Phật đã là tiêu đề cho những công trình tráng lệ trong mọi ngành nghệ thuật, văn hóa, hội họa, điêu khắc và kiến trúc.”

Từ nụ cười hiền hòa và vô tư của Ngài đã nở ra những kho tàng kinh luận nhằm thấu triệt giáo lý uyên thâm của Ngài. Ngày nay, Phật giáo đã phổ biến khắp nơi trên thế giới, thu hút lượng tín đồ càng ngày đông và đang có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền văn hóa phương Tây. Liên Hiệp Quốc đã dành riêng ra một ngày trong năm để tỏ lòng tôn kính đến một bậc trí huệ vô lượng và trái tim thương yêu vô biên, một Đấng mà hằng triệu người từ nhiều quốc gia tôn sùng như là một vị thầy, một vị đạo sư. Nhưng, chúng tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi được biết nước Ấn Độ, trong số tất cả các nước, vẫn còn chưa có được ngày lễ chào mừng Phật đản Vesak!

Đức Phật và đệ tử của Ngài đã giảng dạy giáo pháp của Ngài khắp mọi miền đất nước Ấn Độ, thì không lý do gì chính phủ Ấn Độ lại không chính thức công nhận ngày lễ Phật đản?

Ngoài ra, tại Ấn Độ vẫn còn đó những công trình tráng lệ mang dấu tích của Phật giáo đã một thời hiện diện cùng khắp, thì tại sao chính phủ Ấn Độ vẫn chưa thể chính thức dành một ngày để tưởng niệm và tỏ lòng tôn kính đến đức Phật?

Lá quốc kỳ của Ấn Độ còn mang dấu ấn Dhammacakka, bánh xe pháp, biểu tượng của Phật giáo, thì lý do gì mà chính phủ Ấn Độ lại không chính thức đón mừng lễ Vesak?

Thêm vào đó số, Phật tử người Ấn nay đã có trên hàng triệu người, thì tại sao chính phủ Ấn vẫn còn e dè, trong việc tưởng niệm ngày thiêng liêng nhất của tất cả những người con Phật? Ngay cả tại đất nước láng giềng Bangladesh, một nước mà đa số theo Hồi giáo và chỉ có một thiểu số dân là Phật tử mà ngày Phật đản cũng đã được công nhận như một ngày lễ chính thức của quốc gia. Thật là một điều đáng hổ thẹn khi nước Ấn Độ không trân trọng tưởng niệm ngày lễ Vesak, một ngày đã được Liên Hiệp Quốc dành riêng và cũng là một ngày mà Phật giáo đồ khắp nơi trên thế giới tưởng nhớ và hân hoan chào mừng bậc Vĩ đại nhất của họ! 

Chúng tôi rất thiết tha mong mỏi rằng Đại lễ Vesak sẽ được chính thức công nhận là một ngày lễ trọng đại của quốc gia Ấn Độ, để tỏ lòng tôn kính đến Đấng đã dày công vén màn u minh, xua tan đêm tối, đức Phật Gotama.

Xin thành thật cảm ơn sự chiếu cố của quý vị đến vấn đề cấp thiết nêu trên.

Kính tạ,

Kenand Visakha Kawasaki

Buddhist Relief Mission

75 Anniwatte, Kandy 20000

Theo The Buddhist Channel, April 12, 2006

Nguyễn Chính dịch

Nguồn: Tập san Pháp Luân 26, tr.92, 2006

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.