Đức Phật đã từng viếng thăm và thuyết pháp tại Orissa

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Ấn Độ: Các nhà khảo cổ công bố rằng đức Phật đã từng viếng thăm và thuyết pháp tại Orissa


KOLDATA- Vào ngày 7 tháng 8 năm 2005, các nhà khảo cổ học ở viện Orissa và viện nghiên cứu Đông Nam Á đưa ra các chứng cứ đã khai quật được ở Tarapur, Deuli, Kayama và Radhanager ở quận Jaipur, tiểu bang Orissa về những mảnh khắc chạm của các bình, lọ, cũng như phát hiện ra những ngôi tháp vuông được làm bằng đá tổ ong, gạch nung, những cột trụ hành lang, các thanh xà ngang và các chỉ dụ của vua A Dục. Những chứng cứ đó cho thấy cách đây hơn 2500 năm trước, đức Phật đã viếng thăm và thuyết pháp tại Orissa. Chính điều này phủ nhận lại các giả thuyết trước đây đã cho rằng đức Phật chưa một lần đặt chân đến khu vực này.

Cuộc khai quật còn là bước đột phá trong quá trình khảo cổ học, một lần nữa khẳng định rằng, những di tích mà vua A Dục để lại có liên quan đến Phật giáo đều là minh chứng hùng hồn cho quá trình hình thành và phát triển Phật giáo có mặt tại Orissa, đồng thời đó là một trong những khám phá đầy ngạc nhiên trong lãnh vực nghiên cứu lịch sử cổ.

Bộ trưởng văn hóa của Orissa, ông Darmodar Rout nói: “Cuộc khai quật ở quận Jaipur đã mang lại một sự khám phá đầy ngạc nhiên trong lãnh vực nghiên cứu lịch sử cổ và nghiên cứu lịch sử Phật giáo mà sự việc này đã giải quyết những điều bí ẩn của lịch sử và đặt ra những đề mục mới”. Trong một cuộc họp báo, ông Darmodar Rout lại nhấn mạnh: “Những sự khám pháp hiếm hoi này có thể giải quyết nhiều vấn đề khảo cổ của Ấn Độ và của lịch sử Phật giáo. Những điều tìm thấy đã gây sự thích thú vô cùng và có tầm quan trọng đáng chú ý cho toàn thể thế giới. Chúng tôi xin mời các nhà học giả, các vị Tăng sĩ và các nhà chuyên môn đến thăm viếng những vùng đất này, cũng như góp phần vào việc nghiên cứu xa hơn nữa”.

Còn ông D.R. Pradhan, thành viên bộ khảo cổ học Orissa, đã nói trong cuộc phỏng vấn báo chí hôm chủ nhật: “Theo lời của ngài Huyền Trang, vua Asoka đã xây dựng các ngôi tháp ở những nơi đức Phật đã thuyết pháp. Do đó chúng ta có thể xác nhận rằng đức Phật đã viếng thăm Orissa vì những ngôi tháp tưởng niệm này đã được xây cất bởi vua Asoka. Ngài Huyền Trang nói có 200 Phật tích ở Orissa. Đến đây chúng ta đã kiếm được 139 vị trí.”

Ông Prahan nói thêm: “Trong tiến trình khai quật, chúng tôi đã khám phá những ngôi tháp vuông được làm bằng đá to ong, gạch nung, những cột trụ hành lang, các thanh xà ngang, và các chỉ dụ của thời Asoka.” Ông nói tiếp: “Các lò sành sứ và gốm còn lại của thời đại Asoka cũng được tìm thấy trong khi khai quật. Kích thước của những viên gạch đã chứng tỏ nó thuộc về vương triều Mauryan. Không có những tượng thần được tìm thấy ở những ngọn đồi này, do đó có thể chắc chắn rằng những ngôi tháp này được xây dựng vào thời kỳ đầu của hệ phái Tiểu Thừa (Hinayana) hoặc hệ phái Thượng Tọa Bộ (Theravada) của Phật giáo trong thời hoàng đế Asoka trị vì.”

Ông Prahan lại nói: “Những câu khắc chữ cổ ở Tarapur đã cho thấy hai nhà buôn ở Ukkala (Utkala hay là Orissa) trên con đường đi đến Madhyadesa (phía Bắc Ấn Độ) cùng với 500 xe hàng hóa đã gặp được đức Phật ngay sau ngày thành đạo. Họ dâng cúng đức Phật gạo và mật ong. Đức Phật đã trao cho họ 8 nhúm tóc của Ngài. Sau đó, hai thương gia tôn trí những nhúm tóc này trong ngôi tháp Kesa ở trú xứ của họ tại Asitanjana”.

Tháp Kesa đã được phát hiện cùng với các vị trí Phật tích gần đây ở Tarapur, có thể xem như là ngôi tháp đã được xây dựng bởi Tapusa, một trong hai vị thương gia.

Ngoài ra, những chữ khắc cổ ở trên các mảnh vỏ sò lớn được giao cho giáo sư B.N. Mukherjee ở viện đại học Calcutta, đã giải mã và đưa ra giả thuyết rằng đức Phật đã viếng thăm nơi này.

Qua đó chúng ta có thể thấy, ngành khảo cổ học có những đóng góp rất tích cực trong quá trình truy nguyên tìm về những di tích của Phật giáo, thẩm định lại sự hiện hữu của đức Phật tại Orissa, đặc biệt là những dấu ấn kiến tạo còn để lại của vua A Dục qua những bảo tháp giúp cho Phật giáo càng ngày càng sáng tỏ hơn. Hầu hết những sự khám phá này gợi ý cho chúng ta thấy còn có nhiều vấn đề sẽ được khảo cứu trong tương lai.

Diệu Hảo
(Tổng hợp từ internet)
[Tập san Pháp Luân - số 18, tr.93, 2005]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.