Cuộc đời và ánh đạo của Tôn giả Sàriputta - Phần 1

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

 

Cuộc đời hoằng pháp của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật thành công rực rỡ trên xứ Ấn, một quốc gia đa dạng về chủng tộc và dị biệt về tôn giáo, để hôm nay Phật pháp được lưu truyền trên khắp năm châu, sự hoằng pháp vĩ đại ấy luôn có một phần đóng góp không nhỏ của các vị thánh đệ tử của Ngài. Truyền thống của Phật giáo đã bình chọn được mười vị thánh đệ tử lớn nhất, có công trạng hoằng pháp cũng như những năng lực đặc biệt nhất, vượt lên trên hàng ngàn vị thánh đệ tử khác. Đứng đầu trong mười vị thánh ấy là tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất). Đạo Phật là đạo của trí tuệ “Duy tuệ thị nghiệp”, mà tôn giả Sàriputta được xem là đệ tử có trí tuệ bậc nhất trong hàng ngàn bậc thánh đệ tử của đức Phật. Hơn nữa, trong tiền kiếp tôn giả Sàriputta và tôn giả Moggalli Kolita (Mục-kiền-liên) đã được đức Phật Amomadari thọ kí trong tương sẽ là hai vị đệ tử lớn, như hai cánh tay phải và trái của đức Phật Thích Ca (theo Túc sanh truyện). Do vậy, tôn giả Sàriputta luôn được xem là bậc thánh đứng đầu trong hàng đệ tử của đức Phật Thích Ca, là cánh tay phải đắc lực của Ngài.

1. Dòng tộc và sự xuất thế

Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất), sinh trưởng tại làng Upatissa, thuộc thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-đà. Đây là một ngôi làng trù phú, cổ kính tiêu biểu cho những sức sống tâm linh với những đền thờ, tháp miếu uy nghi; trong ấy thờ nhiều vị thần như: Thần Brahma có bốn mặt, thần Nàgà hình rắn khổng lồ, thần Nandì hình bò mộng to lớn, thần Sudra có ngàn mắt và bốn tay, thần Hunuman hình khỉ đen đúa, v.v… Ngoài ra, trong các am động, cội cây lớn còn có rất nhiều vị thần. Cả hàng trăm vị thần cùng ngồi hòa mình trước sự chiêm ngưỡng và thờ cúng của mọi người.

Thân mẫu Ngài tên là Sàri (Xá-lợi), là một thiếu nữ thuộc dòng Bà-la-môn, dung mạo đoan trang, tư chất thông tuệ, rất giỏi về biện luận. Thân phụ Ngài là đại luận sư dòng Bà-la-môn tên Vaganta (Đề-xá), vừa là tộc trưởng của ngôi làng, cũng là trưởng giáo trong hàng Bà-la-môn, tinh thông kinh điển Vệ-đà và các chú thuật, toán số v.v… môn sinh của ông có đến mấy trăm người. Lúc bấy giờ ông đã gần 50 tuổi, mẹ Ngài trẻ tuổi hơn ông nhiều, do phong tục tảo hôn theo luật Manu của Ấn giáo, bà đã về với chồng lúc mới 10 tuổi. Dù đầy đủ danh vọng và quyền uy cũng như sự giàu có, nhưng ông bà luôn u buồn vì chưa có con để nối dõi. Nếu ông có con thì có thể lấy tên làng để đặt tên cho con mình, vì ông là tộc trưởng của làng nên có được sự vinh hạnh ấy, và để kế thừa truyền thống tâm linh cao cả, cũng như gia sản giàu có của mình. Do vậy, trong các buổi lễ tế thần cũng như những thời lễ riêng, vợ chồng ông lúc nào cũng sắm sanh mọi vật phẩm để cúng tế và thành tâm cầu nguyện:

 “Kính lạy đức Brahma vô năng thắng! Là linh hồn ti tiểu đầy nhiễm ô và bụi bặm do Ngài sáng tạo ra, con đã dọn sạch bản ngã bằng nước thiêng Soma, bởi trầm tư và thiền định. Con lắng dịu mọi vọng tưởng, chỉ còn một khát khao nối truyền tông hệ. Xin Ngài ban cho con một mụn con thơ. Con là linh hồn lạc lõng bơ vơ không còn đâu làm điểm tựa trên cuộc đời này. Vậy khát khao ấy là duy nhất và chơn chánh. Kẻ nô lệ của Ngài sẽ mừng vui tri ân Ngài mà làm một ngôi bảo tháp uy nghi và tạc tượng Ngài, trầm hương, trái cây, mâm súc vật, tế lễ quanh năm v.v… để bảo truyền linh phúc đầy ơn phúc của Ngài lan rộng ra bốn châu thiên hạ v.v… Kính lạy đức Brahma tối thượng tôn, Hóa Sanh chủ, Vô Năng thắng! Xin Ngài ban cho con một mụn con thơ!”.

Cuối cùng thì ước mơ của hai vợ chồng đã đến. Một hôm, sau buổi lễ cầu nguyện, thấy trong mình có những chuyển biến, với những dấu hiệu khác thường, bà Sàri biết trong mình đã thọ thai, bà rất mừng rỡ đến thưa cùng chồng:

“Này thần linh của thiếp! Kẻ nô lệ đã trải qua những khoảnh khắc xuất thần. Một vài linh điển ân triệu từ đấng Tối Cao đã ban xuống, rung động 32 đốt xương sống, rồi tụ sức nóng ở đốt cuối cùng v.v…”

Ông Vaganta hết sức vui mừng, biết rằng điều ước nguyện của mình sắp thành hiện thực, ông tổ chức lễ cúng tế, nguyện cầu nhiều hơn và truyền mở tiệc khoản đãi cả làng.

Bà Sàri vốn là một nữ Bà-la-môn thông thái hiểu biết nhiều, rất giỏi về biện luận. Trước đây, mỗi lần biện luận điều thua cậu em của mình là Câu-hy-la, một đại luận sư nổi tiếng thời ấy, nhưng lạ lùng thay lúc nàng thọ thai, mọi luận giải điều vượt hẳn cậu em. Câu-hy-la đoán biết đứa bé mà người chị mình đang mang trong bụng sẽ là một thiên tài về sau không ai sánh kịp; sợ rằng sau này mình sẽ tranh luận thua đứa cháu mình thì thiên hạ sẽ coi thường; do vậy, ông đã phát nguyện vào tàng kinh các ẩn mình nghiên cứu kinh điển của các học phái, phương pháp biện luận v.v... Ẩn mình gần hai mươi năm, nghiên cứu miệt mài đến nỗi móng tay của ông ta ra thật dài mà không chịu dành thời gian để cắt, vì thế người đương thời còn gọi ông là Trường Trảo Phạm chí (ông Phạm chí có móng tay dài).

Trưởng tộc Vaganta hết sức yêu mến vợ, ông đã cho nhiều nữ tỳ hầu hạ và chăm sóc vợ rất chu đáo trong thời gian nàng mang thai. Ngày tháng dần trôi và ngày mãn nguyệt khai hoa cũng đã đến, nàng Sàri đã sanh hạ một hoàng nam khôi ngô tuấn tú hết sức phi phàm. Sắc diện và dung mạo của bé như một  sư tử chúa lông vàng bước ra từ động báu, tên làng là Upatissa đã được dùng để đặt tên cho bé, kết hợp cùng với tên của người mẹ là Sàri, nên tên của hoàng nhi được gọi là đủ là Sàri Upatissa, nhưng tên thường gặp trong kinh tạng là Sàriputta (Xá-lợi-phất), nghĩa là người con trai của bà Xá-lợi.

Không phải vô tình hay ngẫu nhiên, tất cả cũng nhờ vào nhân duyên tiền kiếp, trong lúc cả làng Upatissa đang tổ chức đại lễ ăn mừng sự chào đời của con trai trưởng giáo, tộc trưởng của làng mình, thì tại làng Kolita kế cận, cũng đang tổ chức lễ vui mừng sự chào đời của con trai tộc trưởng làng của họ, và hoàng nhi này cũng được lấy tên làng để đặt tên là Kolita, gọi đủ là Moggalli Kolita (Mục-kiền-liên).

Cảm tạ ân đức thần linh đã ban cho mình một hoàng nam như ý, trưởng giáo Vaganta đã tổ chức nhiều cuộc tế lễ linh đình và mở tiệc thiết đãi dân làng. Về sau, ông còn xây thêm một bảo tháp để cúng tế, đúng như lời nguyện cầu trước kia.

2. Thuở thiếu thời

Thân phụ Ngài là tộc trưởng, là đại luận sư và cũng là trưởng giáo Bà-la-môn, nên ngay từ lúc vừa biết nói, biết chạy; hoàng nam Sàriputta, được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục rất chu đáo. Ngoài ra, Ngài còn được thân phụ truyền dạy những câu mật chú, những nghi thức tế lễ, nguyện cầu và Ngài cũng được thân phụ thường dẫn theo để tham dự các khóa lễ. Năm lên sáu tuổi Sàrputta đã được phụ thân mời ba vị thầy uyên bác tại thành Vương-xá về dạy các môn: Ngữ pháp, luận lý, triết học v.v…và các môn học thường thức khác, riêng thân phụ chàng hàng ngày vẫn truyền dạy nhiều môn học, nhất là tế lễ. Mẹ chàng, bà Sàri cũng dạy con nhiều điều, nhưng lại lo sợ tham vọng của chồng mình muốn nhét mọi môn học cho đứa con còn quá nhỏ. Trái lại những điều lo sợ của bà, vốn là thần đồng tu học từ nhiều kiếp, Sàriputta lãnh hội rất mau chóng mọi môn học. Chưa đầy một năm sau, thân phụ của Ngài phải hết sức ngạc nhiên về khả năng tiếp thu cũng như sự thông tuệ của con mình, ông rất hãnh diện tuyên bố rằng: Chỉ cần vài năm nữa thôi thì các vị thầy uyên bác kia sẽ không còn điều gì để dạy cho con ta nữa!

Năm lên 8 tuổi, một sự kiện hy hữu đã xảy ra. Thời ấy trong nước Ma-kiệt-đà có hai anh em trưỡng giả, em tên là Cát-lợi, người anh là A-già-la mở tiệc đãi đằng vua quan và các luận sư, đồng thời tổ chức buổi tranh luận về các môn triết học, khoa học, số luận học, kinh điển v.v… Trong hội trường tranh luận, có thiết kế một ghế cao để dành cho vị luận sư nào giỏi nhất, tranh luận thắng thì được ngồi lên đó. Trong buổi lễ ấy cha chàng cũng được mời đến, và người con yêu quý của mình cũng được dẫn theo, khi buổi lễ bắt đầu mọi người ngồi theo vị trí đã được sắp sẵn, chỉ riêng mình Ngài chạy đến chỗ ngồi cao nhất dành sẵn cho người tranh luận giỏi nhất, mọi người đều kinh ngạc, cho là chú bé nghịch ngợm, vô phép, chưa biết gì, nhưng bằng tài thông minh ứng xử của mình, Sàriputta đã làm đẹp lòng mọi quần thần và các luận sư, buổi hội thảo tranh luận vô tình đã trở nên hấp dẫn mọi vấn đề hầu như đều dồn về phía cậu bé, mọi câu hỏi trên mọi lãnh vực được đưa ra, Sàriputta đã trả lời khúc chiết, nghĩa lý thích hợp, mọi vấn đề đều thông suốt giống như những câu trả lời của một đại luận sư nổi danh nhất, toàn thể cử tọa trong buổi hội thảo tranh luận đều kinh ngạc, và họ đều cho rằng cậu bé Sàriputta xứng đáng được ngồi vào ghế danh dự cao cả ấy. Các luận sư đều khâm phục, cha chàng rất hãnh diện và cũng tự nhận thấy rằng tài trí của mình không bằng cậu con yêu, đặc biệt là quốc vương xứ Ma-kiệt-đà rất đẹp lòng và cảm mến tặng luôn một thôn trang cho Sàriputta. Tuổi ấu thơ của Sàriputta đã nổi danh vang lừng như vậy, và cũng kỳ lạ thay bé Kolita ở làng bên cũng nổi danh về thông tuệ.

Gia đình của Sàriputta và gia đình của Kolita có sự giao hảo thân mật từ bảy đời, nên hai trẻ được bố mẹ tạo cho nhiều cơ hội cho hai trẻ gặp nhau cùng vui chơi và sinh hoạt một cách rất hòa thuận và vui vẻ. Có một điều đặc biệt là tự thân Kolita và Sàriputta gọi nhau là huynh đệ, Sàriputta là huynh và Kolita là đệ không cần ai chỉ dạy. Năm lên 12 tuổi, Sàriputta càng nổi tiếng thêm, các môn học về số học tự nhiên học, địa lý, chiêm tinh, triết học v.v… được nhiều vị thầy uyên bác do cha chàng mời thêm tiếp tục truyền trao, trí tuệ của trẻ Sàriputta được các bậc thầy công nhận như là đại dương dung chứa hàng trăm con sông kiến thức, bao nhiêu kiến thức đều được tiếp thu không bao giờ có dấu hiệu tràn đầy. Hạnh phúc càng nhân đôi khi mà vợ Ông, bà Sàri các năm sau lại sanh thêm nhiều người con nữa.

Năm lên 15 tuổi, đúng như lời thân phụ chàng dự tính, các vị thầy uyên bác đã gặp ông và nói rằng: “Thưa trưởng giáo, sở học và chữ nghĩa của chúng tôi thì có hạn mà sự thông minh và lòng ham hiểu biết của công tử thì vô hạn. Chúng tôi, mỗi người chỉ làm thầy công tử một môn học, công tử hiện nay có khả năng làm thầy chúng tôi nhiều môn học khác”. Và tất cả các vị thầy xin được rút lui. Cũng ở tuổi này Sàriputta đã có xung quanh mình cả trăm đồ chúng theo học.

Những năm 17, 18 tuổi chàng chuyên sâu vào nghiên cứu về kinh điển Vệ-đà, đây là kinh điển truyền thống mà dòng dõi Bà-la-môn phải thừa kế. Với trí thông minh và sự hiểu biết của mình, chàng suy tư sâu sắc trên mọi khía cạnh của hệ thống kinh, nhưng kinh này lại tổng hợp nhiều tri thức phức tạp đa dạng phong phú và đôi khi lại có nhiều mâu thuẫn nhau, chàng không sao giải đáp và hiểu tất cả được. Truyền thống của kinh này lại chỉ cho phép ghi nhận hoặc học thuộc và không được hoài nghi. Những suy tư và thắc mắc của Sàriputta ngày càng sâu lắng, không bao giờ chàng dám tự mãn hay tự cao mà luôn suy tư, khiêm tốn vì biết rằng còn rất nhiều điều mà mình chưa biết được, những bài thánh ca, tán tụng, cầu khẩn, tế lễ, thần chú, mà truyền thống Bà-la-môn cho rằng sẽ đưa đến Phạm thiên tối cao hằng hữu, siêu thế v.v… cũng chưa đem đến một ánh sáng nào cho mình, bóng tối về sự hoài nghi đã bắt đầu xuất hiện trong tâm chàng.

Đến tuổi 18, Chàng đã có phong độ và tư cách của một đạo sư lỗi lạc. Cha chàng đã giao tất cả những sự tế lễ cũng như những môn sinh của ông cho chàng đảm trách. Tuy nhiên những phút giây đơn độc, suy tư một mình, hay những khi dạo một mình chàng vẫn có những u hoài, những thắc mắc nan giải trong lòng.

Trí Lộc. (Còn nữa)

[Tập san Pháp Luân - số 5]