Cuộc đời và ánh đạo của Tôn giả Sàriputta

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

(PLO) Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Thánh đệ tử đứng đầu và là người có trí tuệ bậc nhất trong hàng đệ tử của Phật.

(Cuộc đời và ánh đạo của Tôn giả Sariputta - Tiếp theo TSPL.9)

12. Nhập Niết-bàn:

Gần bốn mươi lăm năm hoằng pháp lợi sanh bất quyện, lúc bấy giờ, tôn giả Sàriputta đã 80 tuổi, xác thân tứ đại của Ngài như cổ xe mục sắp hư hoại. Ngài nhận biết rằng nhân duyên hóa độ của mình đã sắp hoàn mãn. Sau một lần tĩnh tọa tư duy, Tôn giả biết được rằng, truyền thống của các vị Đại đệ tử của chư Phật trong quá khứ luôn nhập Niết-bàn trước đức Tôn sư của mình, thọ mạng của mình cũng sắp hết, chỉ trong bảy ngày nữa là đến ngày nhập Niết-bàn. Và Ngài cũng nhận thấy rằng nhân duyên hóa độ mẹ mình đã đến, địa điểm nhập Niết-bàn chính là quê hương của mình, trong căn phòng thuở xưa mà mình đã xuất thế.

Sau khi xuất thiền, Tôn giả đến Đại giảng đường để đảnh lễ đức Thế Tôn và trình bày nguyện vọng nhập Niết-bàn của mình, đức Thế Tôn hứa khả. Tôn giả đã đảnh lễ tri ân đức Thế Tôn với những lời thành kính nhất:

“Ôi! Đệ tử biết nói gì khi vĩnh biệt một bậc vĩ nhân siêu quần bạt tụy? Chính nhờ Ngài mà đệ tử bước ra khỏi bể khổ trầm luân để đi theo dấu chân giải thoát của Ngài. Từ đây, đệ tử sẽ không còn lang thang vô định, tới lui giữa cõi khổ sinh diệt nữa… Thế là gánh nặng muôn đời đã được buông bỏ xuống. Đệ tử sẽ hoàn toàn giải thoát, không còn bất kì một hạt bụi phiền não nào tồn tại. Ân đức ấy thuộc về đức Tôn sư, triệu năm không đền đáp được… Từ khi bước chân vào giáo pháp bất tử, đệ tử đã biết sống một đời có ích, biết phục vụ và biết phát huy, tăng trưởng sung mãn những phẩm chất cao đẹp của con người. Thế nên, biết bao chúng sinh đã được lìa xa khổ não, biết bao chư thiên và nhân loại đã nếm được hương vị của pháp mầu! Giờ đây, đệ tử đi vào Niết-bàn với tâm tư hoàn toàn thanh thản và mãn nguyện. Xin đức Thế Tôn cho phép con được nghỉ ngơi vì cái cỗ xe thân xác này đã đến lúc rã mục. Cho đệ tử được phụng bái một lần nữa, thay mặt chúng sanh tri ân bậc Vô Thượng Giác!”.

Đức Thế Tôn vô cùng xúc động, đợi Tôn giả đảnh lễ xong, Ngài bảo Tôn giả hãy ban cho đại chúng một thời pháp để giáo huấn, thúc liễm chư Tỳ-kheo tinh tấn tu tập trước khi từ giã, ra đi vĩnh viễn. Vâng lời đức Thế Tôn, Tôn giả bước lên một pháp tòa bên dưới đức Thế Tôn, ngồi trang nghiêm, bắt đầu thuyết thời pháp cuối cùng cho đại chúng: “Thời pháp như tiếng gió rì rào bất tận, như hải triều âm xa mù đại dương… Vốn làu thông cả ba Tạng, tôn giả Xá-lợi-phất đã đi từ những pháp cao siêu nhất, xuống những pháp gần gũi và giản dị nhất. Rộng thì đến vô biên, mà nhỏ thì có thể đựng đầu hạt cải. Và cuối cùng, lộ trình hướng thượng ấy, cánh cửa bất tử ấy chỉ còn là đi đứng nằm ngồi, mặc áo, ăn cơm, quét tịnh thất, tôn kính bậc trưởng thượng, tỉnh giác nhu thuận, lặng lẽ, ôn hòa, thuần tịnh, nội tâm trong sạch không có cáu bợn phiền não…!”

Bước xuống khỏi pháp tòa, Tôn giả quyến luyến nhìn đại chúng thân thương và kính lễ đức Tôn sư lần cuối, trong lòng Tôn giả, những kỉ niệm từ vô lượng kiếp lại quay về: “Giờ phút này, giữa không-thời-gian vĩnh cửu, bất diệt, không biết đã trải qua bao trăm ngàn đại kiếp, khi ta quì mọp dưới chân đức Phật Anomadassi và phát nguyện được gặp lại đấng Như Lai này? Nguyện vọng ấy giờ đây đã hoàn toàn viên mãn. Lần gặp gỡ đầu tiên với Ngài là sự kiện lớn nhất đối với ta. Còn đây là lần gặp gỡ sau chót, ta chiêm ngưỡng Ngài, để sau này chẳng còn cơ hội nào nữa cả.”

Với tâm thành tri ân vô hạn, sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn và đại chúng xong, lui từng bước một, Tôn giả lên đường để thực thi hạnh nguyện cuối cùng ấy. Đức Thế Tôn lặng buồn nói với đại chúng: “Các thầy hãy đi đi! Hãy đi tiễn ông anh cao cả của các thầy đi!”. Và Ngài lặng lẽ bước vào hương phòng đóng cửa lại.

Cả đại chúng bàng hoàng xúc động rơi lệ, hàng Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di đau buồn vô hạn khóc vang lên, thế giới Ta-bà rung chuyển theo sáu cách, nước trong bốn biển dâng cao, cả tầng mây, cả hư không cũng dao động không ngớt, vạn vật u buồn như chít khăn tang để đưa tiễn chân của bậc Đại đệ tử, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đi về cố hương không bao giờ trở lại. Trái đất như ngừng quay để thốt lên lời than thở: “Ôi! Hỡi những hiện thân vĩ đại và siêu việt! Mặc dầu thân thể tôi đây có thể chịu đựng được những vết chém ngang dọc của những con sông to, sông nhỏ. Mặc dù thân thể tôi đây có thể chở mang, gánh nặng những ngọn Meru hùng vĩ, những thần sơn Cakkavàla cao ngất và đỉnh Hymavantu-vua của loài núi, ngút mây! Thế nhưng, tôi đã không chịu đựng nỗi ngày hôm nay, một ngày mà Giới đức, Định đức và Tuệ đức cùng vô lượng phẩm chất cao đẹp khác của con người đồng qui tụ ở tại giảng đường Kỳ Viên tịnh xá này!”

Tôn giả Sàriputta cất bước ra đi. Bên cạnh là thị giả, Sa-di Quân Đầu, sau lưng là năm trăm Tỳ-kheo môn đệ của Ngài, rồi đến cả hàng trăm, hàng nghìn Tỳ-kheo trưởng lão khác. Cho đến hàng trăm, hàng ngàn nam cư sĩ, nữ cư sĩ và dân chúng trong thành Xá-vệ đồng đưa tiễn Tôn giả trong sự bịn rịn, u buồn, quyến luyến, khóc than… không muốn quay trở về. Các con đường như phủ kín màu vàng y của chư Tăng, khắp những nơi Tôn giả đi qua là cả rừng người bao phủ, họ quyến luyến, khóc than, buồn khổ… Tôn giả phải nhiều lần dừng lại để khuyên giảng về sự vô thường, tụ tán, sanh diệt của vạn vật, của kiếp người… Và khuyên họ không nên khóc than đưa tiễn nữa, phải nhiều lần như thế, họ mới dằn lòng, gạt lệ quay về, cuối cùng chỉ còn lại Sa-di Quân Đầu và năm trăm Tỳ-kheo tháp tùng Ngài trở về cố hương.

Cuộc hành trình từ Xá-vệ về cố hương của Ngài diễn ra đúng một tuần, suốt cuộc hành trình ấy, Tôn giả cùng phái đoàn có nghỉ lại đêm tại những nơi có hàng cư sĩ nghênh đón. Trong chuyến đi này, Tôn giả cũng đã thuyết pháp, ban bố những ân huệ giải thoát cho rất nhiều người hữu duyên ngay trên đường trở về cố xứ.

Khi phái đoàn đến Nàlakà vào một buổi chiều, dừng chân bên cạnh cây đa ở gần cổng làng, Tôn giả đã gặp người cháu mình, sau khi người cháu đảnh lễ Ngài xong, Tôn giả bảo người cháu về thưa với Bà (mẹ Ngài) là Tôn giả đang trên đường trở về nhà và xin Bà dọn căn phòng thuở xưa Tôn giả chào đời để Ngài ở và cũng xin bà sắp xếp nơi ở cho năm trăm Tỳ-kheo đi cùng Ngài. Phái đoàn Tôn giả về đến nhà đúng vào lúc hoàng hôn đang buông phủ, cả vũ trụ u buồn như đang chít khăn tang. Lúc bấy giờ, Tôn giả đã vào ở trong phòng thuở xưa, toàn thân Tôn giả đau nhức vô hạn, Ngài mắc bệnh tả lỵ, thị hiện bệnh để nhập Niết-bàn, Sa-di Quân Đầu hầu hạ Tôn giả, suốt đêm ra vào liên tục với những cái bô trên tay. Đại Phạm Thiên, thiên chủ Đế Thích, Tứ Đại Thiên Vương… cùng với hàng thiên chúng phóng ánh hào quang chiếu rực cả khu vườn và căn nhà bà Sàri, họ cùng nhau đến viếng thăm và xin hầu hạ Tôn giả lần sau cùng. Nhưng Tôn giả đã từ chối tất cả và cảm ơn thâm tình của họ; Ngài bảo rằng đã có vị thị giả của Ngài làm việc ấy và khuyên họ không nên lo lắng, buồn khổ gì cả vì Ngài chỉ thị hiện bệnh khổ để nhập Niết-bàn, và cho phép họ lui về bổn xứ. Vâng lời của Tôn giả, họ buồn bã lặng lẽ đảnh lễ Tôn giả và biến mất. Chứng kiến được diệu cảnh ấy, bà Sàri, mẹ Tôn giả đã chứng được Thánh quả Tu-đà-hoàn (đã đăng trong số Pháp Luân số 9).

Độ được thân mẫu của mình xong, Ngài nhận thấy nhân duyên hóa độ trên cõi trần này đã hoàn mãn. Bây giờ đã vào canh năm, trời đã gần sáng, Ngài bảo vị thị giả dìu Ngài vào phòng khách lớn của căn nhà và tập hợp tất cả chư Tăng đến. Sau khi an tọa xong, các Tỳ-kheo đã tề tựu đủ, Ngài từ tốn nói với các Tỳ-kheo: “Này các huynh đệ, trong bốn mươi bốn năm, bần đạo đã cùng sống và du hành truyền đạo với các vị, nếu bần đạo có một hành vi hay lời nói nào không vừa lòng, xin chư huynh đệ bỏ lỗi cho nhé.”

Tất cả các Tỳ-kheo vô cùng xúc động đồng thanh trả lời: “Ngài đừng nói thế mà tội nghiệp cho chúng con. Ôi! Quả thật, một sự mếch lòng nhỏ như hạt bụi giữa Ngài đối với chúng con cũng không có! Với chúng con, Ngài là viên ngọc Mani không tỳ vết, là mặt trăng, là mặt trời lồng lộng giữa không trung! Dù Ngài có ra đi, có khuất bóng, dấu chân bất diệt và cao cả của Ngài vẫn còn đó. Chúng con nguyện đi theo dấu chân ấy và ghi khắc hình ảnh của Ngài vào tâm khảm. Phải nói ngược lại mới đúng: xin Ngài hoan hỷ xá tội cho những lầm lỡ của chúng con!”

Trên môi Ngài mĩm nụ cười yếu ớt, qua giọng nói nhỏ yếu, Tôn giả đã sách tấn các Tỳ-kheo hãy tinh tấn nỗ lực tu tập và hoằng pháp lợi sanh, luôn lấy đức Phật làm ngọn tuệ đăng để soi đường, lấy Pháp làm kim chỉ nam để thanh lọc thân tâm tiến về bến giác và luôn nương vào chư Tăng để làm áo giáp kiên cố vượt mọi khó khăn trong cuộc sống… Sau những lời căn dặn đầy thâm tình, Ngài bảo các Tỳ-kheo lui ra ngoài. Trong phòng khách to lớn chỉ còn lại vị thị giả và ba trưởng lão A-la-hán: A-nậu-lâu-đà, Ly-bà-đa, và Cunda đang đứng hầu bên cạnh. Ngài nằm nghiêng người xuống bên hữu, duỗi thẳng chân, nằm đúng theo dáng nằm của sư tử vương, sau đó Ngài nhiếp tâm vào sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vào không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ và đi vào diệt thọ tưởng định. Từ diệt thọ tưởng định, Ngài trở lại sơ thiền… và lên đến tứ thiền, đi sâu vào đại định viên mãn hướng vào Niết-bàn. Khi vầng thái dương xuất hiện phía chân trời thì Ngài đã hoàn toàn vào Niết-bàn vĩnh cửu, đạt đến cảnh giới không còn dư sót bất cứ sự dính mắc khổ đau nào. Hôm ấy là ngày trăng tròn tháng Kattika, theo dương lịch là ngày 15 tháng 10.

Qua tuệ nhãn, trưởng lão A-nậu-lâu-đà biết rằng Tôn giả đã hoàn toàn vào Niết-bàn nên thông báo cho toàn thể các Tỳ-kheo hay biết. Bà Sàri, mẹ Ngài, khi hay tin, vô cùng sửng sốt và bất tỉnh, sau khi tỉnh lại Bà vô cùng ăn năn vì từ trước đến giờ chưa làm gì để phụng sự Tam Bảo. Bà đã sai gia nhân mở tất cả các kho báu để cúng dường chư Tăng và kiến thiết một đại lễ trà tỳ trọng thể nhất, lớn nhất chưa bao giờ được thấy xưa nay. Một giàn hỏa vĩ đại làm bằng các loại hương liệu quí giá, gỗ thơm, trầm hương… với muôn ngàn hoa thơm, diệu hương và hàng ngàn tràng phan, lọng phướn… được bố trí khắp nơi. Hàng trăm, hàng ngàn Tỳ-kheo xúc động, rưng rưng dòng lệ trong tiếng kinh cầu; trầm hùng vang xa cả một vùng. Hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn các Sa-môn, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đại thần, Sa-môn, Bà-la-môn… cho đến dân chúng ở trong làng và các làng kế cạnh đều kéo nhau về tham dự đại lễ Trà-tỳ nhục thân của Tôn giả. Ngọn lửa bốc cao, chiếu sáng khắp cả một vùng trời, hương thơm vang xa đến mấy ngôi làng.

Sau lễ Trà-tỳ, các trưởng lão Tỳ-kheo thu lấy Xá-lợi đặt vào một vuông vải lọc, giao cho Sa-di Quân Đầu và cùng nhau thỉnh Xá-lợi về trình lên đức Thế Tôn.

Nhận bọc vải vuông có Xá-lợi của tôn giả Sàriputta từ Sa-di Quân Đầu, tại Đại giảng đường có đông đủ các Tỳ-kheo, đức Thế Tôn đặt Xá-lợi lên tay trái của Ngài và nói: “Này các thầy Tỳ-kheo! Đây là di cốt có màu sắc sáng trắng như ngọc trai của một vị Tỳ-kheo có phẩm hạnh trinh bạch như một vỏ ốc. Đây là anh cả của các người! Ông đã tích lũy Ba-la-mật như cát của con sông Đại Hằng. Quả vị mà Ông đạt được rất gần với Như Lai. Là một Tỳ-kheo xứng đáng được Tứ chúng tôn trọng và ngưỡng mộ. Trí tuệ của Ông không ai bì kịp, trí tuệ ấy sáng suốt, quảng bác, rực chói như hàng triệu ngôi sao tụ lại. Ông ấy là một người sống đời biết đủ, ít ham muốn, điềm đạm, không dính bụi trần, ưa tĩnh cư, ưa tạo sự hòa hợp giữa Tăng chúng, không mệt mỏi trong Phật sự, không chán nản trong việc giáo huấn môn đồ, là người bạn khả kính, khả ái của mọi người, là một thiện tri thức vĩ đại.”

Thời pháp về công hạnh của tôn giả Sàriputta vừa dứt, đức Thế Tôn nhìn đại chúng với đôi mắt trầm buồn, thầm nói với đại chúng rằng: “Khi Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đi rồi, thì đối với Như Lai, hội chúng này hoàn toàn trống rỗng!” (Lúc này, tôn giả Mục-kiền-liên cũng vừa nhập Niết-bàn).

Sau khi nghe đức Thế Tôn ca ngợi công đức, phẩm hạnh tuyệt vời của tôn giả Sàriputta, hàng cư sĩ tại gia, vua chúa, trưởng giả, đại thần… cùng dân chúng thành Xá-vệ đồng góp tiền của, công đức kiến tạo một ngôi tháp kì vĩ để tôn thờ Xá-lợi của tôn giả Sàriputta ngay trên ngọn đồi tuyệt đẹp nằm sâu trong vườn cây của thái tử Kỳ-đà.

Cuộc đời và ánh đạo cùa tôn giả Sàriputta như thế ấy: ra đời trong sự hân hoan, đón chờ của hàng ngàn người; xuất gia, tầm đạo, hoằng pháp lợi sanh cứu độ hàng vạn người và nhập Niết-bàn trong một trạng thái kì diệu, tự do, tự tại, giải thoát hoàn toàn, nhưng để lại sự nhớ thương, luyến tiếc trong hàng triệu con tim. Để rồi hôm nay và cả tận mai sau, không bút mực nào ca ngợi hết được, dù đó là bút của đại lâm, là mực của đại hải. Ai đã đọc qua trang sử của Ngài, Thánh hạnh hay vạn hạnh của Ngài, không thể không kính, không yêu, không thán phục một cuộc đời, một ánh đạo vĩ đại như thế!

Tài Liệu Tham Khảo:
1. Một Cuộc Đời Một Ngôi Sao (Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
2. Cuộc Đời Ngài Xá-Lợi-Phất (Vị Tăng Đệ Nhất Trí Tuệ - Nguyễn Điều)
3. Thập Đại Đệ Tử (Thích Tịnh Vân)
4. Lịch Sử Đức Phật Tổ Cồ Đàm (Maha ThôngKham Medivongs).
5. Phật Và Thánh Chúng (Cao Hữu Đính).
6. Cuộc Đời Đức Phật (A.F Hrold - Tịnh Minh Dịch).
7. Trên Đường Hoằng Pháp Của Phật Tổ Gotama (Cuộc Đời Đức Phật-Trùng Quang Nguyễn Văn Hiểu).
8. Đức Phật Lịch Sử (The Historical Buddha), Nguyên Tâm-Trần Phương Lan dịch.

Trí Lộc.
[Tập san Pháp Luân - số 10]


 

(Cuộc đời và ánh đạo của Tôn giả Sariputta - Tiếp theo TSPL.8)

10. Độ thân quyến:

Tìm trong kinh tạng hay trong các sử liệu viết về Tôn giả Sàriputta, chúng ta biết được Tôn giả có tất cả sáu người em: ba người em trai và ba người em gái. Ba người em trai tên là: Cunda, Upasena, Revata. Và ba người em gái tên là: Càlà, Upacàla và Sìsupacàlà. Đọc qua sử liệu về Ngài, chúng ta vô cùng khâm phục, kính ngưỡng và đồng thời cũng chúc mừng cho thân mẫu của Tôn giả là bà Sàri có được phước đức vô lượng. Bà sanh được bảy người con, dưới sự hướng dẫn của vị huynh trưởng tài đức vẹn toàn, tất cả đều được xuất gia trong giáo pháp của đức Phật và đồng chứng được thánh quả A-la-hán.

Sau khi xuất gia trong giáo pháp của đức Phật, đức hạnh và tài năng của Tôn giả Sàriputta ngày càng vang xa mãi. Tôn giả đã độ rất nhiều người, trong mọi thành phần từ vương tử, quý tộc, trưởng giả… cho đến những hàng ngoại đạo và những người nghèo khổ có địa vị thấp hèn nhất trong xã hội. Đặc biệt, Tôn giả đã độ được những người thân yêu nhất của mình, từ người cậu theo đạo lõa thể, người cháu thờ lửa tế thần, độ tất cả các người em mình xuất gia, chứng được Thánh quả cho đến người mẹ thân yêu nhất của mình: “Ta có một ông cậu có duyên với Chánh pháp. Ông cậu này thường cúng dường đến các đạo sĩ lõa thể, và ông ta nghĩ rằng làm như vậy là thực hành con đường cộng trú với Phạm thể. Ông cậu này ta đã dẫn đến đức Thế Tôn, và đức Thế Tôn đã đặt ông vào đức tin Tam bảo. Ta cũng có một đứa cháu trai, tháng ngày chuyên giết thú và chăm sóc ngọn lửa tế thần. Y làm như vậy và tin tưởng rằng đấy là con đường dẫn đến cõi Phạm thiên. Ta đã dẫn cháu ta đến bên chân đức Thế Tôn, và đức Thế Tôn đã đặt ông ta vào đức tin Tam bảo từ ấy”.

Trong sáu người em của mình, đầu tiên là hai người em trai Cunda và Upasena, Tôn giả đã khuyên dạy và hướng dẫn hai vị này xuất gia trong Chánh pháp, hai vị đã theo gương vị huynh trưởng của mình nỗ lực tinh tấn tu tập và đã đạt được phẩm hạnh cao quý nhất của một vị Sa môn. Đó là chứng đắc Thánh quả A-la-hán.

Đến ba người em gái: Càlà, Upacàlà, Sìsupacàlà, tuy Tôn giả không trực tiếp hướng dẫn họ xuất gia tu tập nhưng khi nghe danh tiếng tài năng, đức hạnh cũng như sự an lạc, giải thoát của vị huynh trưởng, cả ba người em gái của Tôn giả thấy được sự giả tạm vô thường, đau khổ, ràng buộc của cuộc đời. Họ cũng noi theo gương vị huynh trưởng của mình, lần lượt xuất gia trong Chánh pháp giải thoát, nổ lực tu tập và thành tựu được quả vị Vô sanh (A-la-hán). Như vậy, tuy Tôn giả không trực tiếp hướng dẫn họ nhưng bằng con đường gián tiếp, Ngài cũng độ họ được giải thoát.

Trong sáu người em của Tôn giả Sàriputta, câu chuyện về nhân duyên xuất gia của cậu em út đã làm cho chúng ta thích thú nhất. Khi hay thân phụ của mình qua đời, Tôn giả Sàriputta đã xin đức Thế Tôn về quê hương để thăm viếng gia tộc và để tụng kinh siêu độ cho thân phụ. Được sự cho phép của đức Thế Tôn, Tôn giả đã dẫn theo năm trăm vị Tỳ-kheo để hoằng hóa độ sinh trên quê hương mình, đồng thời cũng tụng kinh hồi hướng công đức để siêu độ cho cha mình. Khi gặp lại được người anh khả kính mà xưa nay mình chỉ nghe danh mà chưa hề thấy được bóng hình, người em út Revata đã nhìn Tôn giả một cách sững sờ: “Đây là anh trai cả tôn quý của ta! Đâu đâu người ta cũng thán phục ca tụng ông anh vĩ đại này. Ồ! Mà sao anh trai ta đẹp quá, uy nghiêm quá, lại dễ mến nữa!”

Tôn giả Sàriputta đã quan sát và biết trước người em út, Revata bảy tuổi bé bỏng của mình cũng sẽ được xuất gia, chứng Thánh quả, nên đã dặn Revata khi nào muốn xuất gia thì hãy đến ngôi làng của khu rừng phía Tây, nơi có mấy mươi vị Tỳ-kheo đang tu hạnh Đầu-đà, nói là em trai của Tôn giả Sàriputta xin phát nguyện xuất gia thì họ sẽ nhận lời để em được xuất gia trong Chánh pháp.

Mẹ của Tôn giả Sàriputta là người rất ghét đạo Phật cũng như ghét cả đức Phật và chư Tỳ-kheo. Bà cho rằng, đức Phật đã dùng chú thuật cướp đi sáu người con thân yêu của bà. Lại nữa, gia đình bà là trưởng giáo Bà-la-môn có truyền thống tín ngưỡng thần linh sâu sắc. Giờ đây chồng bà đã mất, gia tài thì đồ sộ, giàu có nhất làng mà chỉ còn lại người con trai út mới bảy tuổi. Nhìn ánh mắt kính ngưỡng vào vị huynh trưởng sâu sắc của nó trong lúc đưa tiễn Tôn giả Sàriputta về lại tinh xá Kỳ Hoàn, bà sợ cậu út này sẽ xuất gia như các anh chị của nó thì kể như gia tài đồ sộ kia sẽ trở thành hoang phế, và nhất là bà sợ dòng dõi cao quý của gia đình này kể như không có người nối truyền tông hệ, không ai kế thừa huyết thống. Thế là bà quyết định theo chế độ tảo hôn, lo lập gia đình cho cậu con trai út Reveta. Nghĩ là làm, bà đã mời những vị Bà-la-môn trưởng thượng trong quyến thuộc đến để trình bày lý do, nguyện vọng của bà và nhờ họ mai mối tìm vợ cho người con cuối cùng ấy. Sau một thời gian tìm kiếm, họ đã tìm được một người con gái mười bốn tuổi xinh đẹp, môn đăng hộ đối và tiến hành làm đám cưới cho cậu con trai út. Lúc này, Reveta mới bảy tuổi tuy còn bé nhưng cũng rất khôn ngoan và có căn cơ xuất thế. Đám cưới diễn ra rất linh đình. Trong lúc về nhà gái để rước dâu với nhiều nghi thức trọng thể, trong ấy có tiết mục bà ngoại cô dâu là người giàu sang, cao tuổi (120 tuổi), có danh vọng trong gia tộc đứng ra chúc phúc cho hai trẻ được sống hạnh phúc đến ngày răng long, đầu bạc như bà. Nhìn cô dâu thì xinh đẹp, nhưng lại thấy bà ngoại cô thì già nua, tóc bạc, da dẻ nhăn nheo, lưng còng, đi đứng phải nương gậy... Cậu hiểu rằng rồi cô bé xinh đẹp, gọi là cô dâu, vợ mình cũng già và xấu như thế. Nhân duyên xuất trần đã đến, nhớ lại lời dạy của vị huynh trưởng của mình, cậu nghĩ cách thoát thân. Trên đường rước dâu về nhà, Reveta giả vờ đau bụng xin dừng xe để xuống, vào các lùm cây bên đường để đại tiện, xong rồi lên xe đi tiếp, đến ba lần như vậy. Lần thứ tư, khi còn cách nhà không bao xa, Reveta lại nói rất tự nhiên: “Rõ là cái bụng nó đang hành hạ tôi, nhà cũng sắp đến, vậy quý vị cứ chầm chậm cho xe đi trước, tôi sẽ theo kịp ngay tức khắc”.

Đám rước đang diễn ra linh đình, vì thế họ cũng không nghi ngờ gì nữa. Họ đánh xe chầm chậm đi, Reveta tìm vào một lùm cây kín, khuất tầm mắt mọi người và cố gắng chạy một mạch về hướng ngôi làng khu rừng phía Tây gặp các vị Tỳ-kheo đang tu hạnh Đầu-đà để xin xuất gia. Các vị Tỳ-kheo ban đầu không dám nhận Revata vào Tăng đoàn, vì nhìn thấy Revata ăn mặc sang trọng, con nhà quyền quí, và cũng chưa có sự đồng ý của cha mẹ, hay của huynh trưởng… sợ rằng cậu sẽ không kham nổi đời sống xuất thế. Nhưng sau khi biết Reveta là em của Tôn giả Sàriputta, đồng thời đã có sự dặn trước của Tôn giả Sàriputta, các vị Tỳ-kheo đã đồng ý thu nhận Reveta vào tu tập cùng Tăng đoàn. Sau một thời gian nỗ lực tiến tu, cậu bé Reveta đã chứng đắc Thánh quả A-la-hán trước sự kính phục của mọi người.

11. Độ thân mẫu hay hạnh hiếu của Tôn giả Sàriputta:

Khi so sánh về hai Tôn giả Sàriputta và Moggallàna, chúng ta thấy hai Tôn giả có rất nhiều điểm giống nhau một cách lạ kỳ: Giống nhau từ sự xuất thế, dòng họ, chủng tộc, về tài năng, về sự xuất gia và đồng trở thành hai vị Đại đệ tử của đức Thế Tôn. Đặc biệt là, hai Ngài đều thể hiện hạnh hiếu cao cả nhất trong hàng đệ tử của đức Phật, độ được thân mẫu của mình ra khỏi ngoại đạo tà kiến, an trụ vào Phật pháp, thoát khỏi khổ đau.

Cũng giống như của Tôn giả Moggallàna, thân mẫu của Tôn giả Sàriputta cũng ghét cay, ghét đắng đức Phật và chư Tăng. Càng về già bà càng ghét hơn, nhất là lúc này, ngay cả đứa con út bé bỏng của mình, niềm hy vọng nhỏ bé ấy cũng bị cuốn hút vào Tăng đoàn, làm đệ tử của Sa-môn Cù-đàm: “Và vì thế, dù rằng bà có bảy người con đều chứng Thánh quả nhưng bà Sàri vẫn không tin Tam bảo, vẫn xem thường đức Phật và Tăng chúng, vẫn đặt niềm tin mù quáng theo ngoại đạo cổ hủ của mình. Chính vì thế, bà luôn chửi mắng Tăng đoàn và Sa-môn Cù-đàm”.

Chúng ta dễ dàng thông cảm với nỗi khổ đau cũng như tâm tình của người mẹ già này, cả bảy đứa con thông minh, đẹp đẽ… biết bao ước mơ, tự hào, kỳ vọng về đàn con của mình đều dần dần tan theo mây khói. Giờ đây, bà đã gần một trăm tuổi, nhưng không còn một người con nào bên cạnh. Bà nhìn mọi vật vô cùng ảm đạm, cả gia tài “tiền rừng bạc biển” đều chẳng có nghĩa gì, chỉ đồng với cát bụi mà thôi. Nhìn ngôi nhà to lớn cổ kính, ruộng vườn mênh mông, càng làm cho bà thêm cô quạnh. Cả đám gia nhân kẻ hầu người hạ hay hàng thân quyến đông đảo và danh vọng, cũng đồng với nghĩa trống rỗng và khổ đau… làm sao sánh bằng những đứa con thân yêu dứt ra từ khúc ruột của mình.

Đã từ lâu, Tôn giả Sàriputta muốn độ thân mẫu của mình vào niềm tin với Chánh pháp an lạc, nhưng nhân duyên chưa đến nên không độ được. Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta đã tám mươi tuổi, Tôn giả quán sát thấy nhân duyên trụ thế của mình sắp mãn, và nhân duyên độ thân mẫu đã đến. Ngài liền đi đến đảnh lễ xin đức Phật cho về nhập Niết-bàn ở quê nhà và để độ mẫu thân của mình.

Đức Thế Tôn đã chấp thuận, Tôn giả từ giã đại chúng và dẫn theo 500 Tỳ-kheo về quê hương mình. Trên đường về gần đến ngôi làng thuở xưa của mình, Tôn giả gặp đứa cháu trai và bảo người cháu về thông báo với bà (mẹ Ngài) rằng: Tôn giả Sàriputta đã trở về và xin ở lại căn phòng thuở xưa lúc Ngài chào đời. Người cháu vô cùng mừng rỡ, vội vàng chạy về báo tin. Dù rằng bà Sàri rất ghét Tăng đoàn, rất giận người con cả, nhưng lòng yêu thương con không bao giờ vơi cạn, bà đổi giận làm vui để tiếp đón Tăng đoàn. Tối đêm ấy, ở ngay căn phòng thuở xưa lúc chào đời, Tôn giả đã thị hiện bệnh tả lỵ, để nhập Niết-bàn và độ thân mẫu mình.

Lúc bấy giờ, có thị giả Ngài là Sa-di Quân Đầu đang hầu hạ, cứ vào ra với những cái bô trên tay. Bà Sàri rất quan tâm đến người con cả, nhưng vẫn còn đứng ở bên ngoài phòng của Tôn giả quan sát. Lúc ấy, Tứ đại thiên vương, Đế Thích (Thiên chủ cõi trời Đao Lợi), Đại phạm thiên vương và hàng thiên chúng, bằng thần lực, họ biết được Tôn giả đang bị bệnh và sắp nhập Niết-bàn. Với oai nghi, thần lực và hào quang rực rỡ, họ lần lượt hiện vào phòng để kính lễ và xin hầu hạ Tôn giả, bậc A-la-hán, Đại đệ tử của đức Thế Tôn lần cuối… làm cho cả căn phòng và khu vườn nơi Tôn giả Sàriputta đang ở sáng rực hào quang. Nhưng Ngài đã từ chối tất cả và họ đảnh lễ Tôn giả lần lượt trở về bổn quốc.

Bằng thần lực của mình, Tôn giả Sàriputta đã cho mẹ mình thấy được toàn bộ cuộc thăm viếng kỳ diệu ấy. Sau khi các vị Thiên chủ đã ra đi, bà Sàri vội vàng vào phòng của Tôn giả để hỏi thăm về những vị trời ấy. Tôn giả đã từ tốn giải thích đó là những vị trời nào, sự hộ pháp của họ ra sao, đã hầu hạ đức Phật trong lúc đản sanh, sự thưa thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân lúc mới thành đạo như thế nào, v.v… Nghe xong, vô cùng kính phục, bà không ngờ người con của mình cao cả đến độ các vị trời cao quí, ngay cả đến Đại phạm thiên, Brahma (vị trời cao cả nhất, tối thượng nhất mà cả dòng tộc bà cũng như bản thân bà luôn kính ngưỡng phụng thờ, cầu nguyện hàng trăm năm nay) lại chỉ là người hầu của con mình, là đệ tử của đức Thế Tôn. Trong tâm bà Sàri phát khởi tín tâm, suy nghĩ: “Nếu oai lực của người con trai mình như thế thì oai lực vô biên của đấng Bổn sư của con mình còn to lớn biết chừng nào!”

Bằng sự kính ngưỡng cao cả chưa từng có, đồng thời nghe xong bài pháp ngắn về công đức Phật, Pháp, Tăng của Tôn giả Sàriputta, toàn thể châu thân bà Sàri rúng động, niềm tin tối thượng về đức Phật, về người con vĩ đại của mình, cũng như về Tam bảo. Niềm hoan hỷ, an lạc bất tận phát sinh đến từng chân tơ kẻ tóc, bà đã chứng đắc được quả vị Tu-đà-hoàn, chính thức bước vào dòng Thánh, chắc chắn sẽ đạt đến giải thoát, an lạc. Quá xúc động, bà Sàri đã thốt lên với Tôn giả: “Này người con đáng kính của mẹ! Này ngài Upatissa, tại sao trong suốt những năm qua con không ban bố cho mẹ một sự hiểu biết bất tử này?”.

Bằng sự thành tâm tột bậc, bà Sàri đã xin qui y Phật, Pháp, Tăng trở thành một trong những đệ tử tại gia thuần thành nhất. Tôn giả Sàriputta đã độ được mẫu thân của mình trong hoàn cảnh kỳ diệu như thế.

Trí Lộc. (Còn nữa)
[Tập san Pháp Luân - số 9]


 

(Cuộc đời và ánh đạo của Tôn giả Sariputta - Tiếp theo TSPL.7)

8. Hai nhiệm vụ quan trọng:

Bên cạnh sự hoằng pháp về Nam Ấn, kiến thiết tinh xá Kỳ Hoàn, tôn giả Sàriputta còn đảm nhận hai nhiệm vụ vô cùng quan trọng.

Nhiệm vụ đầu tiên: Tôn giả là người duy nhất được đức Thế Tôn chọn để truyền trao pháp môn Tịnh Độ, thuyết giảng kinh A Di Đà. Ngày nay, Phật pháp được lưu truyền khắp mọi nơi trên thế giới, tất cả đều tập trung vào ba tông phái chính: Tịnh Độ tông, Thiền tông và Mật tông. Trong ba tông phái này, Tịnh Độ tông vẫn là tông phái được giới Phật tử áp dụng để tu tập nhiều nhất. Sự thật là xưa nay, tôn giả Sàriputta chưa được xem là ông Tổ của Tịnh Độ tông, nhưng thật sự chính Tôn giả là người đầu tiên được đức Phật gọi đến để truyền trao pháp môn này. Kinh A Di Đà, bộ kinh được Tịnh Độ tông chọn làm tôn chỉ, được thọ trì, tụng đọc thường xuyên trong các thời công phu chiều và tối. Kinh này được tóm gọn trong mười mấy trang, thế mà danh từ Xá-lợi-phất (Sàriputta) được đức Phật nhắc đến ba mươi tám lần.

Tại sao có hàng ngàn Tôn giả khác nhưng đức Phật không chọn để truyền trao pháp môn này, mà lại chọn tôn giả Sàriputta? Một trong những lý do chính là: Tông chỉ pháp môn này luôn xây dựng trên đức tin (Tín). Niềm tin là mẹ đẻ của các công đức, là điều không thể thiếu trong việc hành trì pháp môn này; niềm tin không đòi hỏi phải có trình độ hay không có trình độ. Do sợ đời sau cho rằng, pháp môn này chỉ hợp với người có căn cơ thấp, còn người có trình độ, có căn cơ cao thì không thích hợp với việc tu tập pháp môn này! Khi tôn giả Sàriputta, bậc Trí tuệ bậc nhất trong hàng Thanh văn đệ tử của đức Phật cúi đầu đảnh lễ, nhận lãnh pháp môn này. Thì ai trong chúng ta, những người trên cõi đời hiện nay dám cho ta là hàng trí thức, hàng đại căn để chê bai pháp môn này.

Ngày nay, pháp môn Tịnh độ đang phát triển huy hoàng. Những người chọn pháp môn Tịnh độ để tu tập chắc không bao giờ quên được hình bóng của bậc Đại trí bậc nhất, người đã đảnh lễ thọ trì pháp môn này để được lưu truyền, phát triển cho đến ngày nay.

Nhiệm vụ thứ hai: Một sự việc “vô tiền khoáng hậu” đã xảy ra trong thời đức Phật và khó có thể xảy ra sau này, đó là sự “phá pháp luân Tăng” của tôn giả Đề-bà-đạt-đa. Nhận xét về tôn giả Đề-bà-đat-đa, công bình mà nói thì Tôn giả là người rất có tài năng trên mọi lãnh vực: Giàu sang, quyền thế, văn chương, kiếm cung, tu tập ... chỉ tiếc là tài năng ấy khi đứng cạnh đức Thế Tôn nó bị lu mờ như các vì sao đứng cạnh mặt trăng rằm, như Chu Du đứng gần Gia Cát Lượng. Từ thuở nhỏ vương tử Đề-bà-đạt-đa đã nổi bật và giỏi trên nhiều lãnh vực, là đối tượng cao nhất để tranh giành với thái tử Tất-đat-đa, tranh giành từ con thiên nga trong thuở ấu thời, cho đến tranh giành người đẹp Da-du-đà-la vào lúc trưởng thành và tranh giành cả ngai vàng cao quý.

Khi xuất gia làm đệ tử với đức Phật, ông nổ lực tu tập và chứng đắc được thần thông. Nhưng sau đó, ông cấu kết với thái tử A-xà-thế để tranh giành quyền lãnh đạo Tăng đoàn. Ông khuyến dụ thái tử A-xà-thế giết vua cha là Tần-bà-sa-la để làm vua, còn mình giết Phật để làm Phật và lãnh đạo Tăng đoàn. Sau khi thái tử A-xà-thế đã giết vua cha và lên làm vua, Đề-bà-đạt-đa được vua A-xà-thế trọng dụng và ông đã tiến hành mưu sát Phật, ông đã thuê những sát thu chuyên nghiệp để ám sát Phật, lăn đá để giết Phật, thả voi say để giẫm Phật v.v.. kết quả không thành!

Được sự ủng hộ của vua A-xà-thế, ông đã có quyền lực, giàu sang và danh vọng, ông ra sức chia rẽ Tăng đoàn, sáng lập luật mới, lôi kéo những vị Tỳ-kheo theo mình. Kết quả là ông đã quy tụ đến năm trăm vị tỳ-kheo theo mình, sinh hoạt, tu tập cũng như thọ hưởng vật chất .. . tạo nên đại tội, tội “phá pháp luân Tăng”.

Trước tình hình rạn nứt của Tăng đoàn như thế, đức Phật đã cử tôn giả Sàriputta và Moggallàna đến để thuyết pháp chỉ dẫn cho các vị tỳ-kheo còn mê muội đi theo tôn giả Đề-bà-đạt-đa.

khi thấy hai tôn giả Sàriputta và Moggallàna đến với mình, tôn giả Đề-bà-đạt-đa tưởng hai Tôn giả cũng đã theo mình, Ông lấy làm đắc ý, tự cao và giao năm trăm vị Tỳ-kheo cho hai tôn giả dạy bảo để vào phòng nghỉ. Tôn giả Sàriputta đã thăng tòa thuyết giảng, phân tích đâu là tà, chánh, chân ngụy, đâu là sự xuất gia chân chính… Năm trăm vị Tỳ-kheo sau khi nghe tôn giả Sàriputta thuyết giảng đã nhận thấy sự sai lầm của mình, họ liền từ bỏ Đề-bà-đạt-đa và cùng theo tôn giả Sàriputta về với đức Thế Tôn, Tăng chúng trở lại hòa hợp, thanh tịnh như xưa, chấm dứt sự chia rẽ, rạn nứt trong Tăng đoàn. Khi tôn giả Đề-bà-đạt-đa thức dậy thấy chẳng còn vị Tỳ-kheo nào, Ông tức giận đến thổ ra máu tươi.

Một lần nữa, tôn giả Sàriputta đã cho chúng ta thấy tài năng, cũng như đã hoàn thành trọng trách to lớn chưa từng có trong Phật pháp, hàn gắn lại sự rạn nứt trong Tăng đoàn, chấm dứt sự “Phá Pháp Luân Tăng”, mang lại sự an lạc, thanh tịnh và hòa hợp cho Tăng đoàn.

9. Đức hạnh của tôn giả Sariputta:

Người xuất gia bao giờ cũng lấy đức hạnh làm chính, tôn giả Sàriputta không những có tài năng tuyệt vời như thế mà đức hạnh của Ngài còn tỏa sáng cả Tăng đoàn. Đây lại là một điểm son để chúng ta càng thêm kính trọng và chiêm ngưỡng. Đức hạnh của Ngài bao gồm tất cả các hạnh, vị tha, nhẫn nhục, tri ân, khoan dung, hiếu hạnh v.v...

Hạnh vị tha: Cuộc đời của một vị xuất gia bao giờ cũng nỗ lực để tiêu diệt sự vị kỷ, phát triển lòng vị tha, hoàn thiện đức tánh từ bi hỷ xả. Suốt cuộc đời của tôn giả Sàriputta là một tấm gương vị tha vĩ đại. Ngay từ lúc xuất gia, chứng đắc thánh quả, đảm trách nhiệm vụ “Đại đệ tử” của đức Tôn sư, Ngài đã sống tất cả cho Tăng đoàn, không những Ngài đảm trách mọi công việc quan trọng như hoằng dương chánh pháp về Nam Ấn, kiến thiết tinh xá Kỳ Hoàn, đem lại sự hòa hợp cho chư Tăng… mà Ngài còn làm những việc nhỏ nhất như chăm sóc từng vị Tỳ-kheo bệnh, dọn dẹp rác rưởi, nhà vệ sinh, nhà tắm v.v…

“Vị trưởng lão này không đi khất thực trong lúc sáng sớm như những vị Tỳ-kheo khác. Thay vì thế khi các vị đã đi rồi, Ngài thường thả bước xung quanh tịnh xá, và bất cứ ở đâu nếu Ngài tìm thấy đồ đạc không thu xếp, chỗ ngủ không sạch sẽ, Ngài liền dọn dẹp quét hốt mọi rác rưởi, và sửa soạn ngay cả giường chiếu, bàn ghế, chén bát, bình nước, thứ tự và sẵn sàng để cho những vị kia đi về sẽ dùng. Ngài làm như thế, ngoài đức chăm sóc cho chư Tăng còn nghĩ rằng: “Những đạo sĩ khác không phải người trong Phật giáo khi viếng thăm tịnh xá, có thể thấy được sự vô trật tự rồi chỉ trích chư Tỳ-kheo hoặc coi rẽ Tăng chúng.”

Đức hạnh vị tha, sống với đức Phật, lo cho Tăng đoàn, chăm sóc từng vị Tỳ- kheo già, Tỳ- khoe ốm, cho đến những vị Sa-di bé bỏng. Cuộc sống vị tha hy sinh ấy đến nỗi Ngài không có thời gian rảnh để tự thân chiêm nghiệm, hưởng thọ pháp lạc của tâm giải thoát: “Còn mình? Buổi sáng vừa thấy trọn vẹn đạo bất tử, buổi chiều đã về đây dự cuộc lễ nhận vai trò làm Đại Đệ Tử, buổi tối thì nghe pháp và thuyết pháp…quả thật ta chưa có thì giờ, một khoảng trống nào để tự mình chiêm nghiệm, liễu tri trạng thái vô hành của tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Bây giờ (buổi tối) là phải thời để làm điều ấy .”

Hạnh tri ân: Với nhân duyên kỳ ngộ, tôn giả Sàriputta đã gặp được tôn giả Assaji (A-thị-thuyết) và sau đó đã nhận được đạo bất tử. Để cảm niệm ân tình sâu sắc và cao cả ấy, lúc nào tôn giả Sàriputta cũng không quên vị ân sư này. Ban ngày tôn giả khất thực về thường dâng cúng thức ăn cho tôn giả Assaji, cho đến lúc ngủ Tôn giả cũng không quên hình bóng của vị ân sư này: “Đức Xá-lợi-phất tìm chỗ vắng lặng của mình để tọa thiền hoặc đi kinh hành. Trước lúc đi nghỉ, nghiêng lưng một lát thôi, đức Xá-lợi-phất luôn nhớ đến chỗ của Đại đức Assaji trong tịnh xá hay ở phương nào để quay đầu về hướng đó. Cho chí sau này, trên đường hoằng pháp theo chân đức Bổn sư, đêm nghỉ tại thị trấn, làng mạc, rừng sâu, nghĩa địa … chỗ có mái che hay không có mái che, đức Xá-lợi-phất vẫn giữ thông lệ như vậy, quay đầu về phương hướng mà vị thầy ban đầu của mình đang cư ngụ.”

Hạnh nhẫn nhục:

Từ một người ngoại đạo mới xuất gia, lại trở thành một bậc “Đại đệ tử”  đứng đầu trong Tăng đoàn, tôn giả Sàriputta đã làm mọi Tỳ-kheo kính phục. Tuy nhiên bên cạnh ấy vẫn còn những Tỳ-kheo hữu lậu ghen ghét và đố kỵ nên họ đã có những lời nói và hành động thô lỗ với tôn giả Sàriputta. Channa (Xa-nặc) nghĩ mình có oai thế đã nói lời xúc phạm, phỉ báng đến Tôn giả, Ngài ôn hòa nhẫn nhịn không tranh biện. Đức Thế Tôn hay việc này đã gọi đại đức Channa đến quở trách và dạy rằng: “Này Channa! ông nên nhớ rằng hai vị đệ tử của Như Lai là những người bạn tốt, tốt nhất trên nhân loại. Được làm bạn với họ là hạnh phúc, vô cùng an vui và lợi lạc vô cùng”.

Đức hạnh và tài năng của Tôn giả vượt hẳn người thường, tiếng đồn về Ngài ngày càng vang xa mãi. Có một ông Bà-la-môn nghi ngờ về việc ấy nên muốn thử Ngài. Một hôm, ông rình bên đường đợi Tôn giả Sàriputta đi khất thực ngang qua, bất thần từ phía sau, ông dùng gậy đánh trên lưng Ngài thật mạnh. Nhờ an trú chánh niệm tỉnh giác nên Tôn giả vẫn giữ tâm mình bình thản như không có gì xảy ra, tiếp tục đi khất thực. Vô cùng kính phục trước thánh hạnh ấy, ông Bà-la-môn này liền xin tạ tội và xuất gia làm đệ tử của Tôn giả.

Có một vị tỳ kheo trẻ thiếu tu tập, cảm thấy mình buồn bã không được quan tâm trong đại chúng, vị này đã vô cớ buồn bực vu khống tôn giả Sàriputta ỷ có quyền thế đánh mình và xin đức Thế Tôn phân xử. Trước đại chúng đông đảo, đức Thế Tôn đã hỏi tôn giả Sàriputta có việc ấy không? Tôn giả Sàriputta đã nêu lên chín tâm hạnh cao cả mà mình đã tu tập: Tu tập tâm như đất, mặc cho ai chà, ai đạp, ai bước tới bước lui, quăng lên đấy tất cả mọi dơ uế bất tịnh, ai đại tiện, tiểu tiện lên ấy cũng được…Tu tập như nước, như gió, như lửa… “Bạch đức thế tôn! Chín điều ấy là con, con là chín điều ấy. Tất cả mọi phẩm hạnh, mọi đức tính của một Sa môn mà đức Thế Tôn hằng giáo giới, dẫu con chưa thành tựu vẹn toàn, nhưng con vẫn đang đi từng bước một, vững chắc và ổn định. Từ khi thấy đạo, thấy quả đến nay con chưa hề hổ thẹn một điểm nào về giới luật để đến nổi phải tự khiển trách chính mình. Xin đức thế tôn và cả đại địa chứng minh cho con sự thật ấy”.

Khi tôn giả sàriputta trình bày về tâm hạnh tu tập cao cả của mình như thế, cả đại chúng đều vô cùng kính phục, vị Tỳ-kheo trẻ vô cùng hối hận đã tự thú nhận tội lỗi của mình trước đức Phật, tôn giả và đại chúng, để cầu xin sám hối.

Hạnh nguyện của Sàriputta là hạnh nguyện của một bậc thánh, do vậy những đức hạnh của Ngài chúng ta không thể kể hết được. Ngoài những đức hạnh vị tha, tri ân, nhẩn nhục trên, tôn giả Sàriputta còn thể hiện hiếu hạnh (sẽ trình bày sau), hạnh khoan dung, hạnh nhường nhịn, hạnh hi sinh v.v… mỗi một đức hạnh của Ngài là một tấm gương bằng pha lê trong suốt để hàng con Phật chúng ta noi theo mà tu tập và thực hành.

Trí Lộc.
[Tập san Pháp Luân - số 8]


 

(Cuộc đời và ánh đạo của Tôn giả Sariputta - Tiếp theo TSPL.6)

6. Bậc tướng quân Chánh pháp:

Sau khi đảm nhận trọng trách “Đại đệ tử của đức Thế Tôn”, lúc nào đức Phật cũng bảo tôn giả Sàriputta đứng hầu bên phải của mình (lúc này chưa có tôn giả Ananda), do vậy mọi thời pháp của đức Thế Tôn đều được tôn giả Sàriputta lãnh hội một cách trọn vẹn, sự đa văn thông tuệ của tôn giả ngày càng siêu việt hơn. Có những lúc, đức Thế Tôn vừa thuyết pháp cho nhóm Tỳ-kheo này xong, thì những đoàn Tỳ-kheo khác đến. Những lúc như vậy, đức Thế Tôn thường bảo tôn giả Sàriputta thuyết lại thời pháp của Ngài cho những vị Tỳ-kheo mới đến, để Ngài đi kinh hành một lát. Hay có những khi vì sự bất hòa của thân tứ đại, những lúc như vậy Ngài liền bảo tôn giả Sàriputta thuyết hết bài pháp còn lại mà Ngài chưa hoàn tất, hay thuyết toàn bộ những thời pháp để giáo giới, khuyến khích sự tu tập của hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hàng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… Những thời pháp của tôn giả Sàriputta vừa dứt thì cả đại chúng bao giờ cũng vang lên tiếng “Sàdhu” (lành thay) để ngợi khen tôn giả. Những lúc ấy, đức Thế Tôn cũng đã có mặt trên pháp tòa và tán thán tôn giả Sàriputta trước hội chúng:

“Này các thầy Tỳ-kheo! Xá-lợi-phất trước đây là trưởng giáo Bà-la-môn lỗi lạc lúc vừa 18 tuổi, là một học giả Vệ-đà hữu danh, đa văn, bác học, quảng kiến. Ông thông hiểu rành rẽ, uyên bác tất cả mọi loại triết học trong và ngoài truyền thống. Ông cũng là nhà ngôn ngữ siêu việt hai loại diễn ngôn: Bác học và bình dân, thường ngữ và pháp ngữ. Lại nữa, Xá-lợi-phất còn là một nhà thông thiên văn, địa lý, thuật số, vật lý, tự nhiên học… Với kho tàng kiến thức mênh mông ấy, thế nhưng không bao giờ ông ấy thuyết ra một câu thừa, một chữ thừa. Tất cả chỉ cần vừa đủ, trọn ý; vừa văn chương quí tộc, vừa giản dị bình dân, lúc nghiêm túc, lúc dí dỏm. Ai đã từng nghe Xá-lợi-phất thuyết pháp một lần rồi thì dường như đối với họ, trên đời này không có một pháp sư, một giảng sư nào nữa cả.

Này các thầy Tỳ-kheo! Tiếng sóng của trăm con sông, ngàn con sông đổ dồn về biển. Cũng vậy, giáo pháp Như Lai thuyết là hải triều âm. Giáo pháp mà Xá-lợi-phất thuyết lại, cũng là hải triều âm, không hai, không khác”.

Tìm trong Kinh tạng, chúng ta thấy những thời pháp của tôn giả Sàriputta thuyết giảng rất nhiều và đều có sự ngợi khen và ấn chứng của đức Thế Tôn. Do vậy, những thời pháp ấy được xem là những kinh điển mà tôn giả Sàriputta đã thuyết giảng. Những kinh ấy bao gồm nhiều đề tài khác nhau có liên hệ đến đời sống phạm hạnh. Chuyển tải những giáo lý từ đơn sơ, giản dị cho đến những tư tưởng sâu xa, uyên thâm trong Phật Pháp.

Ví dụ như các kinh:
Những kẻ thừa hưởng pháp bảo (Pháp số 3)
Sự chấm dứt tội lỗi (Pháp số 5)
Sammàdhitthi Sutta (Nói về chánh kiến-pháp số 9) v.v…

Quả thật, những kinh như vậy được tìm thấy rất nhiều trong các kinh: Trường Bộ, Trung Bộ, Trường A Hàm, Tạp A Hàm v.v…

Ngoài sự đảm nhận thuyết giảng Chánh pháp, tôn giả Sàriputta còn thay mặt đức Thế Tôn để giải quyết những vấn đề của chư Tăng, tiếp xúc với vua quan, đại thần, hàng cư sĩ, thí chủ v.v… Có lúc, tinh xá Kỳ Viên lên đến 5000 thầy Tỳ-kheo, bên cạnh những tôn giả đức hạnh cao cả, còn có hàng ngàn Tỳ-kheo mới xuất gia, giới hạnh còn yếu kém… Biết bao nhiêu chuyện quan trọng trong Tăng đoàn từ ẩm thực, y phục, phòng thất… cho đến sự phân công mọi công việc, tu tập… nhiệm vụ mà tôn giả Sàriputta đảm nhận rất to lớn và nặng nề. Ấy vậy mà mọi công việc Ngài đều hoàn thành vô cùng tốt đẹp, thời này được gọi là thời “hoàng kim của Chánh pháp”.

Đặc biệt, tôn giả Sàriputta có công rất lớn trong việc truyền bá Chánh pháp về phương Bắc của xứ Ấn. Tôn giả là người tiên phong trong việc hoằng dương Phật pháp đến xứ này, qua lần đảm trách xứ mệnh kiến thiết đại tinh xá Kỳ Hoàn.

Chính những sự việc to lớn mà tôn giả Sàriputta đã đảm trách và thể hiện, đức Thế Tôn và toàn thể chư Tăng đã ban tặng cho Tôn giả mỹ hiệu là: “Bậc tướng quân của Chánh pháp”

7. Truyền bá Phật pháp về Bắc Ấn hay công cuộc kiến thiết đại tinh xá Kỳ Hoàn:

Nếu tại Nam Ấn có tinh xá Trúc Lâm, thì tại Bắc Ấn có tinh xá Kỳ Hoàn. Đây là tinh xá tuyệt đẹp và rất có công trong việc hoằng dương Chánh pháp. Trong thời đức Phật, tinh xá này do trưởng giả Sudatta (Tu-đạt) dâng cúng.

Ở thành Sàvatthi (Xá-vệ), có vị trưởng giả triệu phú tên là Sudatta. Ông là người rất mực giàu có, lại có lòng thương yêu những người nghèo khổ, cô đơn và thường cung cấp thức ăn, y phục hay những vật dụng cần thiết cho họ, do đó ông được mọi người ban tặng một mỹ danh là: Cấp-cô-độc. Trưởng giả Sudatta có đại thiện duyên hội ngộ với đức Thế Tôn và được đức Thế Tôn thuyết giảng Chánh pháp. Sau khi nghe Pháp, ông chứng được quả vị Tu-đà-hoàn, cảm nhận được pháp lạc vô biên của đạo giải thoát. Với niềm hân hoan sung sướng chưa từng có trong đời, Ông cũng muốn chia sẻ Chánh pháp an lạc giải thoát đến với những người thân của mình và cho cả quê hương mình. Do đó, ông đã cung kính, thỉnh cầu đức Phật cùng đại chúng đến vương thành Sàvatthi, quê hương của ông để hoằng dương Chánh pháp, ban pháp lạc cho chúng sanh.

Được sự đồng ý của đức Phật, trưởng giả Sudatta liền vội vã trở về quê hương tìm một vùng đất như ý để thiết lập tinh xá làm nơi trú ngụ cho đức Phật và chư Tăng. Trải qua mấy ngày tìm kiếm, ông vẫn không tìm được nơi vừa ý, ngoại trừ khu rừng xinh đẹp của thái tử Kỳ-đà. Đây là khu rừng nhỏ rất đẹp, tọa lạc không gần cũng không xa vương thành Sàvatthi, là nơi lý tưởng cho chư Tăng an trú tu tập: “Ở đây có đồi núi nhấp nhô, nước suối ngọt ngào, mát lạnh, tỏa nức mùi hương. Từng khoảng rừng suốt ngày im bóng bởi những tàng cổ thụ xanh um; cây lá phong phú sắc màu, kỳ hoa dị thảo đua nở khắp nơi. Xuyên trong rừng là những khoảng trống lớn nhỏ có thể làm nơi tụ họp hoặc hành thiền cho cả hàng trăm người. Lại có những tảng đá bằng phẳng, nối dài khoảng hai ba chục đòn gánh chạy trong một thung lũng im mát. Suốt ngày gió hát chim ca, mù sương khi đậm khi nhạt, mây trắng vắt ngang đầu núi. Ôi! Quả thật là sơn thủy hữu tình, khí linh thiêng hội tụ từ ngàn năm để chào đón bước chân của đấng vĩ nhân xuất thế!”.

Vẫn biết rằng đây là khu rừng quí giá của thái tử Kỳ-đà, không dễ gì mua được, nhưng vì sự an lạc và hạnh phúc của muôn người, trưởng giả Sudatta cũng quyết định đến gặp thái tử Kỳ-đà để trình bày ước vọng quan trọng nhất trong đời mình và xin thái tử Kỳ-đà bán lại khu rừng ấy cho mình. Trước sự thỉnh cầu tha thiết của trưởng giả Sudatta, thái tử Kỳ-đà rất cảm động, nhưng cũng không muốn mất khu rừng xinh đẹp của mình, do vậy thái tử đã nói một câu đùa vui, để cho Sudatta từ bỏ ý định mua khu rừng: “Nếu ông có khả năng thì cứ lấy vàng mà đổi đất, ta sẽ bán cho.”

Trưởng giả Sudatta vui mừng liền hỏi: “Thưa Thái tử đổi như thế nào ạ!”. Thái tử Kỳ-đà nói: “Suối không kể, đá không kể, chỉ tính đất thôi, Ngài lấy vàng lát cho đầy mặt đất, vàng lát đến đâu là ta bán cho Ngài tới đó.”

Trưởng giả Sudatta liền theo lời nói ấy mà làm. Không ngờ một câu nói đùa mà thành hiện thực, thái tử Kỳ-đà vì trọng tín nghĩa nên không thể rút lại lời hứa. Trong lúc lấy vàng lát đất, còn những gốc cây chưa trải được, trưởng giả Sudatta dừng lại suy nghĩ. Thấy vậy, tưởng Sudatta đã thối tâm, thái tử Kỳ-đà liền hỏi lý do. Sau khi hiểu được lý do và nghe danh về bậc Thánh vĩ đại, thái tử Kỳ-đà đã phát tâm cúng phần gốc cây mà Sudatta không lát vàng được. Từ đó về sau, tinh xá này thường được gọi là: “Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên” (Cây của thái tử Kỳ-đà, khu vườn (đất) của trưởng giả Cấp-cô-độc).

Có được khu rừng như ý, trưởng giả Sudatta liền trở lại tinh xá Trúc Lâm để thỉnh ý đức Thế Tôn chỉ đạo phương pháp xây dựng đại tinh xá, đồng thời ông cũng thưa rằng: “Vương thành Sàvatthi là nơi chưa từng có Phật Pháp, lại là nơi có nhiều bàng môn tả đạo đang lộng hành, mê hoặc quần chúng. Kính thỉnh đức Thế Tôn quang lâm đặt viên đá đầu tiên và hàng phục các tà phái ngoại đạo ở đấy”.

Trước sự việc vô cùng quan trọng ấy, đức Thế Tôn đã cử tôn giả Sàriputta sang Bắc Ấn để kiến thiết đại tinh xá, đồng thời hàng phục hàng ngoại đạo tà giáo ở đấy. Vâng lời đức Thế Tôn, tôn giả Sàriputta cùng với trưởng giả Sudatta lên đường sang Bắc Ấn. Đúng như lời thưa thỉnh của Sudatta, những ngoại đạo ở đây khi biết được việc Sudatta dâng cúng khu rừng và ủng hộ một tôn giáo xa lạ nào ấy ở Nam Ấn, họ vô cùng ganh tị, tức giận tìm mọi cách để quấy phá. Họ sử dụng những năng lực thần thông và giáo lý của họ để tranh biện, xô dẹp không cho tôn giáo mới tồn tại, phát triển làm lu mờ, mất uy tín tôn giáo của họ… Chính vì thế mà tôn giả Sàriputta đã gặp rất nhiều khó khăn ở xứ này. Tuy nhiên, bằng tất cả tài năng, đức hạnh của mình, Tôn giả đã dần cảm hóa mọi tầng lớp thần dân ở đây. Với năng lực thần thông đã chứng đắc, với trí tuệ tuyệt vời, sự uyên thâm về giáo điển cũng như sự thông tuệ mọi tư tưởng, triết lý… Tôn giả Sàriputta đã hàng phục các ngoại đạo, học phái ở đây. Một số lượng rất đông ngoại đạo vô cùng kính phục, đã trở về qui y với Chánh pháp.

Ngay từ thuở còn tại gia, Tôn giả đã thông tuệ về thiên văn, địa lý… với năng lực này, Tôn giả đã kiến thiết đại tinh xá một cách hoàn hảo, từ cách thiết kế hương phòng của đức Tôn sư, các đại giảng đường để thuyết pháp, hành thiền v.v… cho đến những am cốc nhỏ của chư tăng, nhà khám bệnh, suối tắm… Không bao lâu, một tinh xá kỳ vĩ và huy hoàng đã được hoàn thành. Ngày khánh thành tinh xá cũng chính là ngày vương thành Sàvatthi đón tiếp đức Thế Tôn và hàng ngàn vị Tỳ-kheo từ Nam Ấn, tinh xá Trúc Lâm quang lâm đến xứ này. Trong Kinh tạng, tinh xá này mang nhiều tên gọi như: tinh xá Kỳ Hoàn, tinh xá Kỳ Viên, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên… Tinh xá này được đánh giá là một trong những tinh xá đẹp nhất, lớn nhất và là nơi đức Thế Tôn thuyết pháp nhiều nhất. Kinh điển của Phật giáo được hình thành nhiều nhất. Cũng chính vì thế mà trong Kinh tạng, chúng ta thường bắt gặp câu mở đầu: “Như thị ngã văn… Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên…”.

Trí Lộc. (còn tiếp)
[Tập san Pháp Luân - số 7]


 

(Cuộc đời và ánh đạo của Tôn giả Sariputta - tiếp theo TSPL.5)

3. Sự xuất ly gia đình

Lúc bấy giờ tại thành Vương-xá có tổ chức đại hội Bà-la-môn, hai làng Upatissa, Kolita đã đề cử hai chàng Sāriputta và Kolita đại diện cho hai làng đi tham dự. Thành Vương-xá là một kinh đô hoa lệ, thịnh vượng bậc nhất nước Ma-kiệt-đà và của cả xứ Ấn Độ. Nơi đây là điểm giao lưu thương mại kinh tế và văn hóa của các nền văn minh Indus cổ với các tiểu quốc miền Đông và Nam của Ấn Độ. Đây cũng là kinh đô hội tụ rực rỡ của tâm linh tôn giáo. Nhân lễ đại hội, hàng trăm học thuyết, triết thuyết tôn giáo đều qui tụ về. Tất cả những gì hay đẹp trong tế lễ, hội họa, thi ca, múa hát… cũng được tổ chức biểu diễn ở khắp mọi nơi, quả là một khung cảnh náo nhiệt, vui vẻ đầy hân hoan chưa từng thấy xưa nay. Ngày tranh luận bắt đầu, hai chàng đã chứng kiến được rất nhiều giáo phái với những cách ăn mặc phục sức khác nhau, những tư tưởng vô cùng đa dạng và khác biệt; biết bao nhiêu là học thuyết, triết lý cùng nhau đưa ra quan điểm của mình, nào là phái Thắng luận, phái Số luận, phái Khổ hạnh, phái Ngụy biện v.v… nào là những chủ thuyết Duy tâm, Duy vật, Duy lý, Duy thực… Có những học thuyết, những chủ trương trái ngược hẳn với truyền thống của thánh kinh mà hai chàng đã được học. Có những học thuyết bác bỏ thượng đế thần linh, mọi hình thức nguyện cầu tế lễ. Có những chủ thuyết vô thần chủ trương hưởng thụ, cho rằng chết là hết, cứ mặc sức mà hưởng thụ bất cứ điều gì, không có gì là tội, là phước… Chứng kiến những gì diễn ra trong buổi lễ, tâm của hai chàng càng thêm thắc mắc và hoài nghi cực độ. Ba ngày lễ hội đã đi qua, khung cảnh tươi đẹp lúc đầu không còn nữa, thay vào ấy chỉ là những rác rưởi, những điêu tàn khi tan cuộc.

Trong những ngày du ngoạn và tham dự đại hội Bà-la-môn, cả hai chàng đều hoang mang cực độ. Cả hai đều cảm nhận rằng mọi giáo phái, học thuyết… đều mang những bản chất tranh giành, hơn thua kinh khiếp, không chân thật. Kiếp người mong manh, tụ tán, vui buồn, khóc cười theo những trò giả ảo của thế nhân. Trong tâm hai chàng đều có ý muốn thoát ly cuộc sống gia đình, cuộc sống ràng buộc đầy khổ lụy của thế gian.

Sau khi tham dự đại hội trở về, Sàriputta vẫn trầm tỉnh như không có việc gì xảy ra. Thân phụ chàng nhìn con trai trưởng của mình lớn lên với tư cách đạo đức hơn người, uyên bác, thông minh siêu việt, lại cũng đã kế thừa sự nghiệp giáo hóa môn sinh, tiếp nhận đồ chúng cũng như kế thừa mọi truyền thống viên mãn nên ông rất hài lòng. Cả hai ông bà đều tính chuyện lo gia thất cho chàng. Vốn là người thông tuệ, chàng đã cảm nhận và từng nghiên cứu qua những niềm vui về tinh thần và vật chất mà đấng tối cao đã dạy trong thánh điển, cộng với hoài bảo muốn thoát ly của mình, chàng đã từ chối lời yêu cầu của cha mẹ và cầu xin cha mẹ cho mình được xuất gia tầm đạo giải thoát. Bằng mọi hình thức ràng buộc của gia đình, của truyền thống, danh dự, cũng như sự giàu sang… bố mẹ chàng đã tìm mọi cách phủ dụ, khuyên can cũng như buồn thảm và khóc lóc… không cho đứa con yêu kính của mình từ bỏ những quyền uy, danh vọng, giàu sang, ước vọng, ước nguyện của mình mà dấn thân vào con đường đói khổ, lang thang rày đây, mai đó của đời sống xuất gia, xin từng chén cơm thừa, canh cặn bố thí của thế gian.

Thế nhưng, ý chàng đã quyết và không gì lay chuyển được, chàng đã đi đến gặp thân phụ, và đứng vòng tay thưa xin cha mẹ cho xuất gia, nếu không chàng sẽ đứng mãi ở đấy đến chết… Nhìn con mình đứng trân, sắc mặt tiều tụy, không uống không ăn suốt hai ngày qua, đôi chân đã run lên sắp quỵ và té xỉu, ông bà đã khóc nhiều, khuyên nhiều nhưng không sao lay chuyển được ý chí xuất trần của con, nếu không đồng ý chắc chắn chàng sẽ chết dần, chết mòn trước mặt; cuối cùng, ông bà đã đồng ý cho chàng xuất gia.

Kỳ diệu thay, Kolita ở làng bên cạnh cũng phải trải vô vàn khó khăn mới được gia đình cho xuất gia. Vì mục đích giải thoát cao cả, hai chàng đã gạt nước mắt đảnh lễ cha mẹ, từ bỏ tất cả danh vọng, quyền uy cũng như sự giàu sang của gia đình, chủng tộc để dấn thân vào con đường tầm đạo.

Khi hai chàng ra đi thì có gần 250 môn sinh cũng nguyện xin theo hai chàng xuất gia tìm chân lý. Sàriputta và Kolita đều suy nghĩ rằng lâu nay mình chỉ học các giáo phái, học thuyết thuộc truyền thống nên bị bó buộc trong khuôn khổ không thể nào thoát ly ra để thấy được các chủ trương hay của các học thuyết khác. Từ ý nghĩ sáng suốt đó, hai chàng quyết định tìm đến học hỏi những giáo phái ngoài truyền thống Bà-la-môn. Hai chàng đã tìm đến các triết gia, các nhà tư tưởng, nhà ngụy biện… nhưng hai chàng càng cay đắng nhận ra rằng: Mọi học thuyết, giáo phái chỉ là sự tập hợp đông đúc, mang hình thức bên ngoài, ồn ào, hỗn loạn… Ai cũng muốn lập tông, lập giáo, dạy đạo, chỉ là những trưng bày và khoa trương. Bọn thì được các phú thương ủng hộ, bọn thì được các tiểu vương hậu thuẫn, bọn thì mưu đồ chính trị thế quyền, v.v…

Cuối cùng thì hai chàng cũng tìm được một đạo sư nổi tiếng đương thời với nhiều tư tưởng và học thuyết lỗi lạc; đó là đạo sư Sanjaya. Hai chàng và gần 250 đồ chúng của mình đã đồng ý làm môn đệ của vị đạo sư này, điều đó làm cho giáo phái của đạo sư Sanjaya càng nổi tiếng thêm lên. Nhưng sau một thời gian học tập tư tưởng chủ đạo của Sanjaya, Sàriputta và Kolita nhận ra rằng đây cũng chỉ là một học thuyết “bất khả tri”, không mang lại chút ánh sáng chân lý nào cho mình. Vì vậy, hai chàng lại quyết định ra đi, tiếp tục hành trình tầm đạo, mặc dù vị đạo sư Sanjaya cố nài nỉ hai chàng ở lại để giao tất cả đồ chúng mà ông đã từng hướng dẫn lại cho hai chàng.

Từ đây, hai chàng dấn thân vào cát bụi của xứ Ấn khắc nghiệt. Nghe nơi nào có một đạo sư lỗi lạc, hai chàng liền tìm đến để tham vấn, hỏi đạo. Cái băng giá của miền Tuyết Sơn hay cái nóng bỏng của vùng sa mạc, cái hừng hừng khô khát của miền nhiệt đới… gót chân của hai chàng quí tộc đều trải qua. Nhưng hình bóng vị đạo sư chân chánh và ánh sáng giác ngộ vẫn còn xa vời, chưa tìm thấy được.

4. Hội ngộ chân lý

Sau khi chứng ngộ Vô thượng Bồ-đề thành Đẳng Chánh Giác, nhớ lại lời nguyện xưa, đức Thế Tôn trở lại Ma-kiệt-đà để độ vua Bimbisàra (Tần-bà-sa-la). Vua Bimbisàra vô cùng vui mừng, kính phục bậc Đại-giác đã xin thọ Tam qui Ngũ giới, làm một Phật tử tại gia. Đồng thời Ông phát tâm dâng cúng tinh xá Trúc Lâm cho đức Phật và chư Tăng. Từ đây, đạo Giác ngộ và hình bóng giải thoát của chư Tăng đã có mặt trên quốc gia này.

Một hôm trên đường tầm đạo trong thành Vương-xá, Sàriputta thấy một vị sa-môn y bát trang nghiêm, dung nghi từ tốn, gương mặt trầm tĩnh với hình bóng uy nghi giải thoát, từng bước có chánh niệm đang khất thực trên đường. Chưa bao giờ chàng thấy một vị sa-môn nào có một hình dáng đơn sơ vĩ đại như vậy. Dự định chạy đến hỏi đạo, nhưng cái gì đó quá trang nghiêm làm chàng cứ từ từ theo sau vị sa-môn này. Khi ấy cũng đã khất thực xong, vị sa-môn hướng đến một nơi vắng vẻ, dưới một gốc cây to có bóng mát để thọ thực. Như hiểu được ý của vị sa-môn, Sàriputta nhanh nhẹn dùng tọa cụ của mình trải xuống một nơi an tịnh và mời vị sa-môn ngồi thọ thực; sau khi thọ thực xong, chàng dùng nước và tăm xỉa răng của mình mời vị sa-môn dùng. Mọi việc xong xuôi, Sàriputta liền trình bày ước nguyện của mình và cầu xin vị sa-môn chỉ dạy đạo giải thoát, vì chàng chắc rằng đây thực sự là bậc đã giải thoát mọi sự ràng buộc. Vị sa-môn từ tốn giải thích rằng Ngài là đệ tử của đức Thế Tôn, tên là Assaji (A-thị-thuyết, là một trong năm vị A-la-hán đầu tiên) chỉ mới xuất gia nên chưa hiểu gì nhiều về đạo giải thoát. Do quá khát ngưỡng chánh pháp giải thoát, Sàriputta cầu xin Ngài chỉ dạy cho chàng dầu là một câu kệ ngắn cũng được, thế là tôn giả Assaji đọc bài kệ về Duyên khởi cho Sàriputta nghe:

Các pháp do nhân-duyên sanh, cũng do nhân-duyên diệt,
Ðức Phật của chúng ta, thường dạy nói như vậy.
(Chư Pháp tùng duyên sanh, diệc tùng nhân duyên diệt
Ngã Phật Đại Sa môn, thường tác như thị thuyết).

Với trí tuệ đã chín muồi, khi nghe xong bài kệ, Sàriputta liền tỏ ngộ, toàn thân rúng động chứng được sơ quả Tu-đà-hoàn. Sau đó, tôn giả Assaji khuyên Sàriputta hãy đến tinh xá Trúc Lâm diện kiến đức Thế Tôn để học đạo giải thoát.

Với tâm vô cùng hân hoan, Sàriputta chí thành đảnh lễ từ tạ tôn giả Assaji, chàng trở về gặp hiền đệ Kolita. Thấy sàriputta với vẻ mặt rạng rỡ chưa từng thấy, Kolita ngạc nhiên hỏi duyên cớ, Sàriputta đã kể lại nhân duyên kì ngộ cùng tôn giả Assaji. Sau khi nghe xong bài kệ, Kolita cũng tỏ ngộ chứng được sơ quả Tu-đà-hoàn.

Không muốn riêng mình nhận được giáo pháp bất-tử, hai chàng nghĩ về đạo sư cũ và các môn đệ của mình. Sàriputta và Kolita đã trở lại báo tin cho họ rằng mình đã tìm thấy đạo giải thoát, và khuyên họ cùng mình đến tinh xá Trúc Lâm diện kiến đức Như Lai; Nhưng nghiệp duyên còn nặng, vị đạo sư này không nghe còn dụ hai chàng ở lại để trao đồ chúng cho hai chàng lãnh đạo… Khuyên không được Sanjaya, hai chàng đã từ giả ông ra đi. Hơn 250 đồ chúng của Ông cũng đi theo hai vị huynh trưởng thông tuệ của mình để học đạo giải thoát. Nhìn đồ chúng của mình lần lượt ra đi, Sanjaya quá uất ức hộc máu mà chết.

5. Trở thành đệ tử của đức Thế Tôn

Khuyên không được vị thầy cũ, Sàriputta và Kolita dẫn hơn 250 môn đệ đến tinh xá Trúc Lâm. Khi vào đến giảng đường, hai chàng cùng các môn đệ đồng quì xuống cầu xin đức Thế Tôn nhận làm đệ tử, xuất gia trong đạo giải thoát của Ngài. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của họ, liền nói: Etha bhikkhave (Thiện lai Tỳ-kheo), đức Thế Tôn vừa dứt lời cả hai chàng cùng hơn 250 môn đệ đều đầy đủ y bát, mang hình bóng xuất trần của những bậc Tỳ-kheo. Sau đó, đức Thế Tôn thuyết pháp cho các vị tân Tỳ-kheo; thời pháp vừa dứt, lạ lùng thay tất cả đều chứng quả Vô sanh (A-la-hán), chỉ riêng Sàriputta và Kolita đều không chứng thêm thánh quả nào. Mãi đến một tuần sau Kolita nỗ lực tu tập mới chứng được thánh quả A-la-hán, còn Sàriputta nửa tháng sau mới chứng đắc quả vị Vô sanh, trở thành bậc có trí tuệ bậc nhất trong hàng đệ tử Thanh văn của đức Phật.

Truyền thống của Đại thừa Phật giáo đã kể lại sự chứng đắc thánh quả A-la-hán của tôn giả Sàriputta như sau:

Sau gần hai mươi năm ẩn mình trong tàng kinh các để nghiên cứu tất cả mọi học thuyết, Câu-hy-la, người cậu của tôn giả Sàriputta đã xuất quan ra khỏi tàng kinh các trở thành người thông biện, chưa ai biện luận thắng ông được. Khi biết người cháu mình đã xuất gia theo đức Phật, ông nghĩ rằng nay ta đã là người biện luận giỏi nhất và dĩ nhiên cháu ta sẽ không bằng ta, ta sẽ biện luận để thu phục sa môn Cù Đàm (đức Phật), như vậy cháu ta và mọi người mới hoàn toàn kính phục ta. Nghĩ là làm, ông đã đến gặp đức Phật. Lúc bấy giờ, đức Phật đang thuyết pháp cho đại chúng, tôn giả Sàriputta đang đứng hầu bên cạnh. Phạm chí Câu-hy-la thấy cơ hội tốt đã đến, ông liền hỏi để chất vấn đức Thế Tôn:

-“Này sa môn Cù Đàm, người không chấp ngã, chấp pháp. Ý ông nghĩ sao?”

Đức Thế Tôn không trả lời mà vặn hỏi lại ông:

-“Này Phạm chí, ông bảo rằng ông không chấp ngã, chấp pháp, vậy ông có chấp vào cái tri kiến không chấp ngã, chấp pháp của ông không?”.

Ngay câu hỏi vặn của đức Thế Tôn, Phạm chí Câu-hy-la thất kinh tự biết mình đã thua, toàn thân toát mồ hôi nhưng vẫn tự kiêu nên vặn hỏi lại để trả lời:

-“Này sa môn Cù Đàm, người không chấp ngã, chấp pháp cũng không chấp vào tri kiến không chấp ngã, chấp pháp. Ý ông nghĩ sao?”

Đức Thế Tôn liền trả lời:

-“Này ông Phạm chí, ông bảo ông không chấp ngã, chấp pháp, cũng không chấp vào tri kiến không chấp ngã, chấp pháp; vậy hà cớ gì ông đến đây để chất vấn Như Lai?”.

Ngay khi câu hỏi của đức Thế Tôn vừa dứt, phạm chí Câu-hy-la liền tỏ ngộ chứng được sơ quả Tu-đà-hoàn, và xụp lạy xin đức Thế Tôn cho làm đệ tử xuất gia tu tập. Tôn giả Sàriputta đang đứng hầu sau đức Thế Tôn, cũng ngay nơi câu trả lời ấy liền hoát nhiên đại ngộ, chứng được thánh quả A-la-hán.

Ngay buổi chiều hôm tôn giả Sàriputta chứng đắc thánh quả A-la-hán, đức Thế tôn đã tập hợp hàng ngàn vị Tỳ-kheo và cư sĩ tại gia đến tinh xá Trúc Lâm để tuyên bố: “Từ đây, Như Lai đã có hai vị Đại đệ tử, là hai vị trưởng tử của Như Lai, đó là tôn giả Sàriputta và tôn giả Kolita. Sàriputta là đệ nhất đại đệ tử và Kolita là đệ nhị đại đệ tử. Họ sẽ là hai cánh tay trợ thủ đắc lực cho Như Lai, được quyền thay mặt Như Lai giải quyết tất cả mọi lãnh vực thuộc về Phật sự hay Tăng sự”. Toàn thể đại chúng thảy đều kinh ngạc và thắc mắc: Tại sao những tôn giả, trưởng lão như nhóm năm ngài Kiều Trần Như, nhóm ngài Yasa, hay nhóm 30 Tỳ-kheo ở Chư Tiên đọa xứ v.v… không được làm trưởng tử, mà hai tôn giả Sàriputta và Kolita còn trẻ, mới xuất gia cũng như mới chứng đắc thánh quả… lại được vinh dự ấy?

Biết được tư tưởng của đại chúng, đức Thế Tôn đã thuyết giảng cho đại chúng nghe về những nhân duyên, sự phát nguyện của hai tôn giả trong tiền kiếp, cũng như những tài năng và quả vị mà hai tôn giả đã chứng đắc trong hiện tại…Toàn thể đại chúng đều dứt mọi nghi ngờ và thảy đều kính phục hai tôn giả.

Trí Lộc.(Còn nữa)

[Tập san Pháp Luân - số 6]


 

Cuộc đời hoằng pháp của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật thành công rực rỡ trên xứ Ấn, một quốc gia đa dạng về chủng tộc và dị biệt về tôn giáo, để hôm nay Phật pháp được lưu truyền trên khắp năm châu, sự hoằng pháp vĩ đại ấy luôn có một phần đóng góp không nhỏ của các vị thánh đệ tử của Ngài. Truyền thống của Phật giáo đã bình chọn được mười vị thánh đệ tử lớn nhất, có công trạng hoằng pháp cũng như những năng lực đặc biệt nhất, vượt lên trên hàng ngàn vị thánh đệ tử khác. Đứng đầu trong mười vị thánh ấy là tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất). Đạo Phật là đạo của trí tuệ “Duy tuệ thị nghiệp”, mà tôn giả Sàriputta được xem là đệ tử có trí tuệ bậc nhất trong hàng ngàn bậc thánh đệ tử của đức Phật. Hơn nữa, trong tiền kiếp tôn giả Sàriputta và tôn giả Moggalli Kolita (Mục-kiền-liên) đã được đức Phật Amomadari thọ kí trong tương sẽ là hai vị đệ tử lớn, như hai cánh tay phải và trái của đức Phật Thích Ca (theo Túc sanh truyện). Do vậy, tôn giả Sàriputta luôn được xem là bậc thánh đứng đầu trong hàng đệ tử của đức Phật Thích Ca, là cánh tay phải đắc lực của Ngài.

1. Dòng tộc và sự xuất thế

Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất), sinh trưởng tại làng Upatissa, thuộc thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-đà. Đây là một ngôi làng trù phú, cổ kính tiêu biểu cho những sức sống tâm linh với những đền thờ, tháp miếu uy nghi; trong ấy thờ nhiều vị thần như: Thần Brahma có bốn mặt, thần Nàgà hình rắn khổng lồ, thần Nandì hình bò mộng to lớn, thần Sudra có ngàn mắt và bốn tay, thần Hunuman hình khỉ đen đúa, v.v… Ngoài ra, trong các am động, cội cây lớn còn có rất nhiều vị thần. Cả hàng trăm vị thần cùng ngồi hòa mình trước sự chiêm ngưỡng và thờ cúng của mọi người.

Thân mẫu Ngài tên là Sàri (Xá-lợi), là một thiếu nữ thuộc dòng Bà-la-môn, dung mạo đoan trang, tư chất thông tuệ, rất giỏi về biện luận. Thân phụ Ngài là đại luận sư dòng Bà-la-môn tên Vaganta (Đề-xá), vừa là tộc trưởng của ngôi làng, cũng là trưởng giáo trong hàng Bà-la-môn, tinh thông kinh điển Vệ-đà và các chú thuật, toán số v.v… môn sinh của ông có đến mấy trăm người. Lúc bấy giờ ông đã gần 50 tuổi, mẹ Ngài trẻ tuổi hơn ông nhiều, do phong tục tảo hôn theo luật Manu của Ấn giáo, bà đã về với chồng lúc mới 10 tuổi. Dù đầy đủ danh vọng và quyền uy cũng như sự giàu có, nhưng ông bà luôn u buồn vì chưa có con để nối dõi. Nếu ông có con thì có thể lấy tên làng để đặt tên cho con mình, vì ông là tộc trưởng của làng nên có được sự vinh hạnh ấy, và để kế thừa truyền thống tâm linh cao cả, cũng như gia sản giàu có của mình. Do vậy, trong các buổi lễ tế thần cũng như những thời lễ riêng, vợ chồng ông lúc nào cũng sắm sanh mọi vật phẩm để cúng tế và thành tâm cầu nguyện:

 “Kính lạy đức Brahma vô năng thắng! Là linh hồn ti tiểu đầy nhiễm ô và bụi bặm do Ngài sáng tạo ra, con đã dọn sạch bản ngã bằng nước thiêng Soma, bởi trầm tư và thiền định. Con lắng dịu mọi vọng tưởng, chỉ còn một khát khao nối truyền tông hệ. Xin Ngài ban cho con một mụn con thơ. Con là linh hồn lạc lõng bơ vơ không còn đâu làm điểm tựa trên cuộc đời này. Vậy khát khao ấy là duy nhất và chơn chánh. Kẻ nô lệ của Ngài sẽ mừng vui tri ân Ngài mà làm một ngôi bảo tháp uy nghi và tạc tượng Ngài, trầm hương, trái cây, mâm súc vật, tế lễ quanh năm v.v… để bảo truyền linh phúc đầy ơn phúc của Ngài lan rộng ra bốn châu thiên hạ v.v… Kính lạy đức Brahma tối thượng tôn, Hóa Sanh chủ, Vô Năng thắng! Xin Ngài ban cho con một mụn con thơ!”.

Cuối cùng thì ước mơ của hai vợ chồng đã đến. Một hôm, sau buổi lễ cầu nguyện, thấy trong mình có những chuyển biến, với những dấu hiệu khác thường, bà Sàri biết trong mình đã thọ thai, bà rất mừng rỡ đến thưa cùng chồng:

“Này thần linh của thiếp! Kẻ nô lệ đã trải qua những khoảnh khắc xuất thần. Một vài linh điển ân triệu từ đấng Tối Cao đã ban xuống, rung động 32 đốt xương sống, rồi tụ sức nóng ở đốt cuối cùng v.v…”

Ông Vaganta hết sức vui mừng, biết rằng điều ước nguyện của mình sắp thành hiện thực, ông tổ chức lễ cúng tế, nguyện cầu nhiều hơn và truyền mở tiệc khoản đãi cả làng.

Bà Sàri vốn là một nữ Bà-la-môn thông thái hiểu biết nhiều, rất giỏi về biện luận. Trước đây, mỗi lần biện luận điều thua cậu em của mình là Câu-hy-la, một đại luận sư nổi tiếng thời ấy, nhưng lạ lùng thay lúc nàng thọ thai, mọi luận giải điều vượt hẳn cậu em. Câu-hy-la đoán biết đứa bé mà người chị mình đang mang trong bụng sẽ là một thiên tài về sau không ai sánh kịp; sợ rằng sau này mình sẽ tranh luận thua đứa cháu mình thì thiên hạ sẽ coi thường; do vậy, ông đã phát nguyện vào tàng kinh các ẩn mình nghiên cứu kinh điển của các học phái, phương pháp biện luận v.v... Ẩn mình gần hai mươi năm, nghiên cứu miệt mài đến nỗi móng tay của ông ta ra thật dài mà không chịu dành thời gian để cắt, vì thế người đương thời còn gọi ông là Trường Trảo Phạm chí (ông Phạm chí có móng tay dài).

Trưởng tộc Vaganta hết sức yêu mến vợ, ông đã cho nhiều nữ tỳ hầu hạ và chăm sóc vợ rất chu đáo trong thời gian nàng mang thai. Ngày tháng dần trôi và ngày mãn nguyệt khai hoa cũng đã đến, nàng Sàri đã sanh hạ một hoàng nam khôi ngô tuấn tú hết sức phi phàm. Sắc diện và dung mạo của bé như một  sư tử chúa lông vàng bước ra từ động báu, tên làng là Upatissa đã được dùng để đặt tên cho bé, kết hợp cùng với tên của người mẹ là Sàri, nên tên của hoàng nhi được gọi là đủ là Sàri Upatissa, nhưng tên thường gặp trong kinh tạng là Sàriputta (Xá-lợi-phất), nghĩa là người con trai của bà Xá-lợi.

Không phải vô tình hay ngẫu nhiên, tất cả cũng nhờ vào nhân duyên tiền kiếp, trong lúc cả làng Upatissa đang tổ chức đại lễ ăn mừng sự chào đời của con trai trưởng giáo, tộc trưởng của làng mình, thì tại làng Kolita kế cận, cũng đang tổ chức lễ vui mừng sự chào đời của con trai tộc trưởng làng của họ, và hoàng nhi này cũng được lấy tên làng để đặt tên là Kolita, gọi đủ là Moggalli Kolita (Mục-kiền-liên).

Cảm tạ ân đức thần linh đã ban cho mình một hoàng nam như ý, trưởng giáo Vaganta đã tổ chức nhiều cuộc tế lễ linh đình và mở tiệc thiết đãi dân làng. Về sau, ông còn xây thêm một bảo tháp để cúng tế, đúng như lời nguyện cầu trước kia.

2. Thuở thiếu thời

Thân phụ Ngài là tộc trưởng, là đại luận sư và cũng là trưởng giáo Bà-la-môn, nên ngay từ lúc vừa biết nói, biết chạy; hoàng nam Sàriputta, được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục rất chu đáo. Ngoài ra, Ngài còn được thân phụ truyền dạy những câu mật chú, những nghi thức tế lễ, nguyện cầu và Ngài cũng được thân phụ thường dẫn theo để tham dự các khóa lễ. Năm lên sáu tuổi Sàrputta đã được phụ thân mời ba vị thầy uyên bác tại thành Vương-xá về dạy các môn: Ngữ pháp, luận lý, triết học v.v…và các môn học thường thức khác, riêng thân phụ chàng hàng ngày vẫn truyền dạy nhiều môn học, nhất là tế lễ. Mẹ chàng, bà Sàri cũng dạy con nhiều điều, nhưng lại lo sợ tham vọng của chồng mình muốn nhét mọi môn học cho đứa con còn quá nhỏ. Trái lại những điều lo sợ của bà, vốn là thần đồng tu học từ nhiều kiếp, Sàriputta lãnh hội rất mau chóng mọi môn học. Chưa đầy một năm sau, thân phụ của Ngài phải hết sức ngạc nhiên về khả năng tiếp thu cũng như sự thông tuệ của con mình, ông rất hãnh diện tuyên bố rằng: Chỉ cần vài năm nữa thôi thì các vị thầy uyên bác kia sẽ không còn điều gì để dạy cho con ta nữa!

Năm lên 8 tuổi, một sự kiện hy hữu đã xảy ra. Thời ấy trong nước Ma-kiệt-đà có hai anh em trưỡng giả, em tên là Cát-lợi, người anh là A-già-la mở tiệc đãi đằng vua quan và các luận sư, đồng thời tổ chức buổi tranh luận về các môn triết học, khoa học, số luận học, kinh điển v.v… Trong hội trường tranh luận, có thiết kế một ghế cao để dành cho vị luận sư nào giỏi nhất, tranh luận thắng thì được ngồi lên đó. Trong buổi lễ ấy cha chàng cũng được mời đến, và người con yêu quý của mình cũng được dẫn theo, khi buổi lễ bắt đầu mọi người ngồi theo vị trí đã được sắp sẵn, chỉ riêng mình Ngài chạy đến chỗ ngồi cao nhất dành sẵn cho người tranh luận giỏi nhất, mọi người đều kinh ngạc, cho là chú bé nghịch ngợm, vô phép, chưa biết gì, nhưng bằng tài thông minh ứng xử của mình, Sàriputta đã làm đẹp lòng mọi quần thần và các luận sư, buổi hội thảo tranh luận vô tình đã trở nên hấp dẫn mọi vấn đề hầu như đều dồn về phía cậu bé, mọi câu hỏi trên mọi lãnh vực được đưa ra, Sàriputta đã trả lời khúc chiết, nghĩa lý thích hợp, mọi vấn đề đều thông suốt giống như những câu trả lời của một đại luận sư nổi danh nhất, toàn thể cử tọa trong buổi hội thảo tranh luận đều kinh ngạc, và họ đều cho rằng cậu bé Sàriputta xứng đáng được ngồi vào ghế danh dự cao cả ấy. Các luận sư đều khâm phục, cha chàng rất hãnh diện và cũng tự nhận thấy rằng tài trí của mình không bằng cậu con yêu, đặc biệt là quốc vương xứ Ma-kiệt-đà rất đẹp lòng và cảm mến tặng luôn một thôn trang cho Sàriputta. Tuổi ấu thơ của Sàriputta đã nổi danh vang lừng như vậy, và cũng kỳ lạ thay bé Kolita ở làng bên cũng nổi danh về thông tuệ.

Gia đình của Sàriputta và gia đình của Kolita có sự giao hảo thân mật từ bảy đời, nên hai trẻ được bố mẹ tạo cho nhiều cơ hội cho hai trẻ gặp nhau cùng vui chơi và sinh hoạt một cách rất hòa thuận và vui vẻ. Có một điều đặc biệt là tự thân Kolita và Sàriputta gọi nhau là huynh đệ, Sàriputta là huynh và Kolita là đệ không cần ai chỉ dạy. Năm lên 12 tuổi, Sàriputta càng nổi tiếng thêm, các môn học về số học tự nhiên học, địa lý, chiêm tinh, triết học v.v… được nhiều vị thầy uyên bác do cha chàng mời thêm tiếp tục truyền trao, trí tuệ của trẻ Sàriputta được các bậc thầy công nhận như là đại dương dung chứa hàng trăm con sông kiến thức, bao nhiêu kiến thức đều được tiếp thu không bao giờ có dấu hiệu tràn đầy. Hạnh phúc càng nhân đôi khi mà vợ Ông, bà Sàri các năm sau lại sanh thêm nhiều người con nữa.

Năm lên 15 tuổi, đúng như lời thân phụ chàng dự tính, các vị thầy uyên bác đã gặp ông và nói rằng: “Thưa trưởng giáo, sở học và chữ nghĩa của chúng tôi thì có hạn mà sự thông minh và lòng ham hiểu biết của công tử thì vô hạn. Chúng tôi, mỗi người chỉ làm thầy công tử một môn học, công tử hiện nay có khả năng làm thầy chúng tôi nhiều môn học khác”. Và tất cả các vị thầy xin được rút lui. Cũng ở tuổi này Sàriputta đã có xung quanh mình cả trăm đồ chúng theo học.

Những năm 17, 18 tuổi chàng chuyên sâu vào nghiên cứu về kinh điển Vệ-đà, đây là kinh điển truyền thống mà dòng dõi Bà-la-môn phải thừa kế. Với trí thông minh và sự hiểu biết của mình, chàng suy tư sâu sắc trên mọi khía cạnh của hệ thống kinh, nhưng kinh này lại tổng hợp nhiều tri thức phức tạp đa dạng phong phú và đôi khi lại có nhiều mâu thuẫn nhau, chàng không sao giải đáp và hiểu tất cả được. Truyền thống của kinh này lại chỉ cho phép ghi nhận hoặc học thuộc và không được hoài nghi. Những suy tư và thắc mắc của Sàriputta ngày càng sâu lắng, không bao giờ chàng dám tự mãn hay tự cao mà luôn suy tư, khiêm tốn vì biết rằng còn rất nhiều điều mà mình chưa biết được, những bài thánh ca, tán tụng, cầu khẩn, tế lễ, thần chú, mà truyền thống Bà-la-môn cho rằng sẽ đưa đến Phạm thiên tối cao hằng hữu, siêu thế v.v… cũng chưa đem đến một ánh sáng nào cho mình, bóng tối về sự hoài nghi đã bắt đầu xuất hiện trong tâm chàng.

Đến tuổi 18, Chàng đã có phong độ và tư cách của một đạo sư lỗi lạc. Cha chàng đã giao tất cả những sự tế lễ cũng như những môn sinh của ông cho chàng đảm trách. Tuy nhiên những phút giây đơn độc, suy tư một mình, hay những khi dạo một mình chàng vẫn có những u hoài, những thắc mắc nan giải trong lòng.

Trí Lộc. (Còn nữa)

[Tập san Pháp Luân - số 5]