Chùa Một Cột là một thể loại kiến trúc độc đáo giữa lòng kinh đô Thăng Long.
Theo truyền thuyết vào năm 1049, một hôm nhà vua nằm mộng thấy Phật Quan Âm dắt vua lên tòa sen. Tỉnh giấc, vua thấy lòng mình bàng hoàn như là chuyện thật, nên vào buổi thiết triều vua đem việc ấy hỏi các quần thần, trong đó có các thiền sư đạo cao đức trọng tham dự. Nghe rõ sự việc, Thiền sư Thiền Tuệ khuyên vua xây chùa để báo ơn Phật, theo đúng mô hình như giấc chiêm bao đã thấy. Do đó, chùa có mô hình như một tòa sen, được dựng trên cột đá giữa ao, như đã thấy trong chiêm bao. Khi chùa được khánh thành, các Thiền sư chay đàn, tụng kinh cầu cho quốc thái dân an và lấy tên là chùa Diên Hựu (kéo dài cõi phúc). Vì có mô hình “một cột” nổi trên hồ sen, nên nó còn có tên là chùa Một Cột.
Qua thời gian, chúng ta thấy chùa Một Cột được trùng tu vào khoảng những năm 1840-1850 và vào năm 1922. Đài Liên Hoa chúng ta thấy hiện nay được làm lại năm 1955. Đài hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3m, mái cong, dựng trên cột cao 4m, đường kính 1,20m gồm 2 trụ đá ghép chồng lên nhau liền thành một khối. Tầng trên là một khung gỗ kiên cố đỡ ngôi đài với mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có lưỡng long triều nguyệt. Hình dáng ngôi chùa như một đóa hoa sen vươn thẳng lên khu ao hình vuông được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Đi qua ao theo lối nhỏ lát bằng gạch, ta sẽ đến một cầu thang dẫn lên Phật đài có một tấm biển bằng chữ Hán đề trước cửa: Liên Hoa Đài. Đó chính là vài nét mô phỏng về kiến trúc ngôi chùa. Ngày nay, chùa Một Cột chính là biểu tượng văn hóa thể hiện được bề dày của một nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Nếu đứng trên bình diện triết học để bàn về kiến trúc đặc sắc này thì chúng ta thấy chùa chỉ có một gian còn gọi là Liên Hoa đài (đài hoa sen) nằm trên một cột đá (nhất trụ - nên chùa còn có tên là chuøa Moät Coät) nằm giữa hồ Linh Chiểu (Linh Chiểu tỉnh) chính là lối kiến trúc thể hiện tinh thần bất nhiễm, tinh thần “nhất trụ kình thiên” của lịch sử giữ nước của dân tộc. Ngoài hồ Linh Chiểu còn có hồ Liên Trì hình tròn, có bốn cầu cong bắt qua. Theo bia ký ở chùa Long Đọi (Nam Hà) ghi lại sự tích này như sau: “Đào hồ Linh Chiểu, giữa hồ vươn lên một cột đá, đỉnh cột nở đóa hoa sen nghìn cánh, trên sen dựng tòa điện màu xanh. Trong điện đặt pho tượng Quan Âm. Vòng quanh hồ là dãy hành lang. Lại đào ao Bích Trì, mỗi bên đều bắc cầu vồng để đi qua. Phía sân cầu đằng trước, hai bên tả hữu xây tháp lưu ly”.
Khi nói về “đài hoa sen” thì quan niệm biểu trưng tinh thần bất nhiễm của Phật giáo được bộc lộ rõ nét. Chùa như một đóa sen tinh thần vĩ đại mọc lên giữa hồ Linh Chiểu và được một hồ sen tạo hóa bao trùm lấy nó, tôn lên một vẻ đẹp triết lý sâu xa về bản chất giác ngộ ẩn tàng trong mỗi cuộc đời chúng sanh. Tuy rằng giữa cuộc đời, chúng ta thấy có tính cá biệt của người này người nọ; cũng như tính sai biệt trong một rừng cây, có cây cao cây thấp, nhưng tinh thần Pháp vũ vô phân biệt của Phật giáo như một đóa sen bất nhiễm, luôn tỏa hương thơm ngát, mang đến sự giải thoát cho chúng sanh và cứu vớt chúng sanh bằng tấm lòng bao dung, độ lượng không phân biệt sang hèn.
Kiến trúc chùa Một Cột còn mang tính triết lý âm dương trong triết học Trung Hoa. Quan niệm âm dương là một quan niệm đặc biệt của người Trung Hoa mà chúng ta không thấy trong tư tưởng của các dân tộc khác. Riêng quan niệm positif négatif ở châu Âu thì cũng chỉ là một phần nhỏ của quan niệm âm dương mà thôi.
Ngoài ra, tinh thần tùy duyên của Phật giáo rất là uyển chuyển, nhưng không vì thế mà mất đi chân lý giải thoát của mình. Theo Robert e.fisher cho rằng: “trong số bí quyết dẫn tới sự thành công của Phật giáo là khả năng thích nghi và nó chuyển hóa bên trong các nền văn hóa khác nhau…, cả những thần linh nông nghiệp mang tính chất phồn thực (khả năng sinh sản và sự màu mở đất đai)”. Riêng nghệ thuật kiến trúc chùa Một Cột, sự ảnh hưởng này ở chỗ vòng ngoài hình vuông (tượng trưng cho âm - dấu trừ) và cột hình tròn (tượng trưng cho dương - dấu cộng), công tác hoán chuyển cho nhau mà Kinh Dịch gọi “dịch là giao dịch”, bao gồm các tính chất: “trong dương có âm, trong âm có dương; âm thịnh dương suy, dương thịnh thì âm suy”, đó chính là quy luật tuần hoàn tương khắc, tương sinh của vũ trụ.
Về phương diện mỹ học, chúng ta thấy tên khoa học của hoa sen là Nelumbo nucifeca Gaertn, thuộc chủng loại Nymphaeaceae thường được thấy trong các ao hồ khắp vùng châu Á. Màu sắc và hình dáng tươi đẹp của hoa sen đã tô điểm thêm cho vẻ đẹp của cảnh quan. Nhưng đó chỉ là cái đẹp về hình thức, còn cái đẹp về nội dung thì sao? Có thể nói rằng: sự chấm dứt khổ, đó là cái Đẹp theo thẩm mỹ Phật học. Cho nên kinh Pháp Hoa có đoạn: “Hoa sen được dùng làm biểu tượng để diễn đạt nội dung cái Đẹp. Đó là cái Đẹp của một cuộc sống biết vận dụng tất cả những gì cho là ô trọc biến thành hương thơm ngát diệu tỏa khắp muôn phương, là một nhân cách sống trong chốn bùn dơ nhưng không bị cấu nhiễm bởi bùn dơ. Không những thế, nó còn đủ khả năng biến cấu uế thành thanh tịnh. Một điều lý thú, nếu không có cái gọi bùn dơ ấy thì chắc chắn không có giá trị của cái hương thơm. Sen làm nên bùn; bùn làm nên sen; sen với bùn không hai không khác, để rồi sen và bùn thong dong đi vào cõi bất cấu bất tịnh; bất tăng bất giảm. Đây là cái lý của sinh tử tức Niết-bàn.”
Về phương diện đạo đức học thì dân tộc Việt Nam đã tiếp biến một phần giáo lý căn bản của Phật giáo thành nét tư duy đặc thù của mình. Do vậy, hình ảnh hoa sen lúc mới nở đã có “quả”- có “nhân” (nhân quả đồng thời) vốn là giáo lý nhân quả Phật giáo mà cũng là kiến thức dân gian của mọi người con Việt. Và hoa sen cũng là loài hoa tinh khiết, biểu trưng tinh thần cao đẹp về đạo lý truyền thống rằng, làm con người sống giữa trần gian, sống trong lao khó nhưng hãy luôn giữ tâm hồn mình trong sạch như hoa sen chẳng nhuốm mùi tục lụy.
Để kết lời, người viết xin mượn lời thơ của Thiền sư Huyền Quang đã “Vịnh chùa Diên Hựu” để nói lên giá trị tinh thần vĩ đại của chùa mà chúng ta phải trân trọng giữ gìn:
“Đêm thu chùa thoảng tiếng chuông tàn
Phong đỏ, trăng ngời, sóng nguyệt tan
In ngược hình chim, gương nước lạnh
Sẫm đô bóng tháp, ngón tiêu hàn”.
(Huệ Chi dịch)
Quang Đức
[Tập san Pháp Luân - số 17, tr.61, 2005]