(PLO) Bức tranh toàn cảnh Phật giáo Đất Phương Nam có màu sắc đặc thù mang tính dung hợp, dung hợp tộc người đa chủng dung hợp văn hóa giao lưu, dung hợp văn minh quần tụ và đặc sắc hơn cả là dung hợp tông phái Phật giáo.
(Tiếp theo TSPL1)
III. Đất Phương Nam
1. Vùng đất bốn phương quần tụ
Là vùng đất khí hậu nghiệt ngã, nơi nổi tiếng là lam chướng núi rừng, là vùng nê địa đất “Sơn bất cao, thủy bất thâm. Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá” như lời Nguyễn Ánh đã từng nhận định. Nơi đây lũ lụt, hạn hán, đói kém, mất mùa, tai trời, nạn nước thường xuyên đe dọa cuộc sống con người. Tuy nhiên, bên cạnh điều khó khổ kia, thiên nhiên cũng ưu đãi những vật thủy sản, hải sản, lâm sản v.v… nhờ đó mà đất nầy cũng có điều hấp dẫn thu hút những ai tìm đường sống - những kẻ giang hồ tứ chiến. Có thể nói đất nầy là nơi bốn phương quần tụ, nhất là nó luôn hấp dẫn những kẻ tha hương muốn làm lại cuộc đời; những kẻ muốn tìm cho mình một mái ấm. Thật vậy,
Hò hơ ơ...ơ...ơ... đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ,
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu,
Anh về anh học chữ nhu o ờ. Hò hơ, ơ...ơ...ơ...
Anh về anh học chữ nhu o ờ,
Chín trăng em đợi o ờ, mười thu em o o chờ…
2. Vùng đất văn hóa giao lưu, tộc người gặp gỡ
Đất Phương Nam nơi đây hội đủ tộc người Miên-Việt-Chăm-Hoa, tất cả cùng sống chung hài hòa thân quen nhau trong cùng một tín ngưỡng, tôn giáo, đó là đạo Phật. Tôn giáo đã là chất liệu gắn bó các tộc người với nhau và trong cuộc sống đời thường, không hề có giai cấp trong sinh hoạt xã hội, nhất là trong đời sống lứa đôi, tuổi thanh xuân, trai-gái
Gái Tầm Vu một xu ba đứa,
Trai Thủ Thừa cưỡi ngựa sang mua.
Tuy nhiên không hẳn là trai làng nào cũng sáng giá hết đâu, có lúc các cô thôn nữ cũng ra giá, nếu muốn được vào cặp mắt xanh của các nàng thì:
Làm trai cho đáng nên trai,
Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng.
Trai mà được vậy thì các cô không nỡ bỏ qua:
Anh về để áo lại đây,
Đêm khuya em đắp, kẻo em lạnh lùng.
Thế nhưng, trai khôn cũng biết tìm vợ chợ Đông. Chàng cũng làm ra vẻ có giá:
Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp,
Trả áo anh về, đi học kẻo trưa.
Thế nhưng có lúc các cậu cũng hạ mình:
Trúc xinh trúc mọc bên đình,
Em xinh em [vựa cột] đình cũng xinh.
Rồi thế, thường thì các cô cũng dễ xuôi lòng:
Qua đình ngã nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.
Thế rồi, ông tơ bà nguyệt se duyên đến gần:
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền.
Nhìn chung, trên vùng đất văn hóa giao lưu, tộc người gặp gỡ, yếu tố Đất và Người đã chan hòa nhau và tạo nên con người Đất Phương Nam một phong cách sống: chuộng nhân nghĩa, trọng hiền tài, cao hiếu kính, đa tài tử. Yêu quê hương, gắn bó làng nước, mõ sớm chuông chiều đã để lại dấu ấn không hề phai trong lòng người và ấn tượng ấy đã trở thành nếp sống văn hóa trong cuộc sống con người Đất Phương Nam:
“Bao giờ tôi bỏ quê tôi,
Bỏ trăng bỏ gió, chao ôi bỏ Chùa”.
Từ đây, văn hóa Phật giáo đã chan hòa trong cuộc sống:
“Đức Bụt thật từ bi, mong nhiều kiếp nguyện cho thân cận”.
3. Vùng đất đa tôn giáo-tín ngưỡng
Vốn là nơi hội tụ của nhiều nguồn văn hóa, do vậy tôn giáo, tín ngưỡng cũng có màu sắc thật phong phú: đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Phật giáo Hòa Hảo, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, đạo Hồi, Tín ngưỡng Vật linh, v.v... tất cả đã cùng gặp gỡ trên vùng Đất Phương Nam, đó là lý do để giải thích vùng đất nầy là vùng đất đa tôn giáo-tín ngưỡng. Tính chất đa tôn giáo-tín ngưỡng nầy được biết như là:
Đối tượng Thờ phụng
• Tiên, Thần, Thánh
• Mẫu (điển hình là Bà chúa xứ)
• Hành, Tiên Cô, Cửu Huyền,
• Hiền, Hậu Hiền; (bậc công thần mở đất lập làng) những vị nầy được tôn là thần hoàng, bổn cảnh, v.v...
• Tánh-Hương Linh (các loại âm hồn)
• Vị (không rõ tên)
Hình thức Thờ phụng
• Chùa, sau miếu.
• Miếu sau chùa (tiền đình hậu Phật)
Cơ Sở Thờ Phụng
• Chùa Am, Cốc, Tu Viện, Tịnh Thất, Tịnh Xá
Lễ hội
Cúng-kiến trong những ngày Sóc, Vọng, Giỗ, Mừng,
Cúng Phật-kiến Thần hay ngược lại là cúng Thần-kiến Phật. Hình thức nầy gọi là cúng-kiến. Khi diễn ra lễ hội thì trong chùa làm chay cúng Phật; bên ngoài hát bội cúng Thần. Đây gọi là lễ hội “trong chay, ngoài bội”
4. Vùng đất Tông-phái dung hợp
Đất nầy, Phật giáo Đất Phương Nam là nơi đón nhận nhiều dòng văn hóa, là nơi giao lưu nhiều tộc người, do đó nhiều Dòng-Phái Phật giáo cũng đã gặp nhau trong sinh hoạt tu học. Do đó có thể nói rằng, Phật giáo Đất Phương Nam có màu sắc Dòng-Phái dung hợp. Những dòng phái chính có mặt trên vùng Đất Phương Nam đó là:
Dòng phái Người mở đạo đầu tiên
Đạo-Bổn-Nguyên NguyênThiều-Siêu Bạch
Thiệt-Tế-Đại Thiệt Diệu-Liễu Quán
Trí-Huệ-Thanh Trí Thắng-Bích Dung
IV. Người Phương Nam
Người Đất Phương Nam nổi bật những đặc tính như: trực tánh, chân tình, mộc mạc, chuộng nhân nghĩa, trọng hiền tài, cao hiếu kính, đa tài tử.
Trực tánh:
Cày sâu ngã mệt lên bờ,
Mùng em có trống nghỉ nhờ một đêm
Chân tình:
Hò hơ... nghe anh hay chữ, em muốn hỏi thử đôi lời,
Chứ thuở mới tạo thiên lập địa.. à ơ ơ.ơ.o.o.o hò hơ. ơ ơ.ơ chứ thuở mới tạo thiên lập địa... ông trời... ai... sanh?
Hò hơ.o.ơ ơ.ơ nghe em hỏi mắc anh trả lời phác cho rồi.
Chứ thuở mới tạo thiên lập địa... à ơ ơ.ơ.o.o.o hò hơ. ơ ơ.ơ chứ thuở mới tạo thiên lập địa... hai đứa mình chưa... sanh
Đa tài tử:
Ra đi gặp vịt cũng lùa, gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu.
V. Phật giáo Đất Phương Nam
Phật giáo Đất Phương Nam mang tính dung hệ, không cao xa; mang nặng tính triết học, hay nặng tính thi ca như tính chất của dòng thiền Vô Ngôn Thông mà có thể nói rằng nó gần với phong cách nhập thế của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi hơn. Có hai dòng phái thiền lớn mạnh hơn cả đã đóng vai trò chủ lưu trong dòng chảy Phật giáo Đất Phương Nam đó là dòng thiền Đạo-Bổn-Nguyên và phái Thiệt Diệu-Liễu Quán.
Những bậc Tổ đạo của Phật giáo Đất Phương Nam điển hình như: Phật Ý-Linh Nhạc, Tổ Tông-Viên Quang, Tiên Giác-Hải Tịnh (Giác Lâm-Gia Định), Minh Thông-Hải Huệ (Bửu Lâm, Cái Bèo-Đồng Tháp), Như Hiển-Chí Thiền (Phi Lai, Núi Voi-Châu Đốc), Như Nhãn-Từ Phong (Giác Hải, Chợ Lớn), Như Trí-Khánh Hòa (Tuyên Linh, Mõ Cày-Bến Tre), Hồng Hưng-Thạnh Đạo, Khánh Anh (Phước Hậu, Trà Ôn-Vĩnh Long), Giác Hải, Trừng Tùng-Chơn Thoại (Linh Sơn, núi Bà Đen-Tây Ninh), Tâm Hòa-Chánh Khâm (Linh Sơn, núi Bà Đen-Tây Ninh) v.v…
Tư tưởng học lý Bát nhã mà điển hình là sách Kim Cang Chư gia rất được phổ biến trong giới Tăng sĩ. Nhiều nơi còn lại trên tháp Tổ đạo ở chốn Tổ đình đều thấy có bài kệ “Bồ-đề bổn vô thọ; minh cảnh diệc phi đài”. Nó đủ cho thấy phong cách dòng Tào Khê của Tổ Huệ Năng Trung Hoa còn ảnh hưởng đậm nét trên vùng Phật giáo Đất Phương Nam.
Nhiều câu đối liễn ở nhiều chùa Nam Bộ cho thấy tính dung hợp giữa Thiền-Tịnh như câu: “Nương phước báu chuyển sanh, nói rộng ba thừa mở đường giác. Lòng từ độ người, dạy cho mười niệm đến ao sen” (Phước lực thọ sanh diễn thuyết tam thừa khai giác lộ. Hậu tâm tiếp vật, chỉ giáo thập niệm đáo liên trì). Nổi bật hơn cả là học lý Bát nhã vô chướng ngại, điều mà biểu hiện qua câu đối nổi danh: “Nhất trần bất nhiễm Bồ-đề địa; vạn thiện đồng qui Bát nhã môn”.
Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ 20 được phát khởi đầu tiên ở miền Nam. Cho dù phong trào chưa thành công lớn mạnh nhưng nó đã đóng vai trò chuyển tiếp, tạo nền tảng vững chắc cho sự thành hình Giáo hội về sau. Từ Gia giáo, trường Hương (khóa Hạ), trường Kỳ (Đại giới đàn) đến hội Phật học, đến trường Phật học, v.v… tất cả đã cho thấy tâm nguyện Tổ đạo: Tiếp độ người sau lòng không mỏi. Cảm niệm ân xưa, thật không thể nói hết, nói cho trọn vẹn công hạnh Tổ đạo trên vùng Phật giáo Đất Phương Nam mà chỉ biết rằng:
Hương xưa còn mãi miền sông Hậu,
Hạnh, Giải chan hòa bảy núi thiêng.
THAY LỜI KẾT
Phương Nam nơi đây đã tạo nên Đất và Người là hai nhân tố tốt để bậc Tổ đạo gieo mầm hoa giác ngộ, đó cũng chính là nền tảng để định hình nên vùng trời: Phật giáo Đất Phương Nam. Trải cùng năm tháng, Phật giáo Đất Phương Nam đã bén rễ, tươi cành, xanh lá trổ hoa trên vùng đất mới từ Đồng Nai-Biên Hòa, Gia Định được coi là đất lành, nơi đây nổi tiếng là đất văn vật. Trí thức Gia Định luôn mượn cảnh trí chùa Phụng Sơn làm nơi thưởng ngoạn, tiêu dao. Câu “nhất trần bất nhiễm Bồ-đề địa” vốn là cương lĩnh tâm yếu của thiền môn mà cũng là khẩu khí của hàng thượng lưu trí thức qua những tao đàn thi ca, cũng như lúc bên chung trà, chén rượu. Nơi đây, Đất Phương Nam cũng một thời có tiếng là “đất lành chim đậu”; người chuộng nhân nghĩa, trọng hiền tài, nhà nhà khắp thôn xã đều ngâm ca câu hữu đạo: Tử viết, Kinh vân. Mây lành che phủ, bao thập niên bốn mùa hoa đạo xinh tươi. Từ chim hót, suối reo đều là vang vọng tiếng pháp mầu, thanh bình là thế. Rồi bỗng chốc Tây xâm thành nội, Pháp chiếm Nam Kỳ, năm 1862 Đông Nam bộ rơi vào tay giặc, năm 1884 cả nước Việt nhượng giao cho Pháp. Trần Văn Thành (Bảy Thưa) lập cứ địa ở Láng Linh (Châu Đốc), vùng Bảy núi vốn là nơi cho chí sĩ ẩn thân chờ thời cơ để cứu nguy xã tắc. Khi vận nước ngửa nghiêng cũng là lúc đạo pháp chìm trong tủi nhục. Bậc Tổ đạo cố duy trì giềng mối; nào Gia giáo Giác Lâm-Gia Định, khi mở hạ Vĩnh Tràng-Mỹ Tho; lúc khai kỳ Tây An-Châu Đốc, lúc Tam Bảo-Hà Tiên.
Trăng Lăng Già, sen Bát nhã vốn là tông chỉ Tâm tông, nguồn thiền Tổ đạo của Phật giáo Lý-Trần, ấy mà nay lại phảng phất hương đưa về bảy núi, sông thiêng. Tông chỉ “Trong núi vốn không có Phật của thiền Tổ Trúc Lâm cũng theo thời mà hóa thân, để dung hợp với dòng thiền Đạo-Bổn-Nguyên, điều mà như ta thấy có: Nguyên Thiều-Siêu Bạch (Thập Tháp-Bình Định) xuống đến Minh Thông-Hải Huệ (Bửu Lâm-Đồng Tháp), Như Hiển-Chí Thiền (Phi Lai, Núi Voi-Châu Đốc), Như Nhãn-Từ Phong (Giác Hải-Chợ Lớn), Như Trí-Khánh Hòa (Tuyên Linh-Bến Tre); cũng từ đó mà đèn Tổ tiếp nối, tâm đăng sáng lòa. Minh khiêm-Hoằng Ân (Giác Lâm-Gia Định) ở tuổi 22 mà đã lên đàn dẫn thỉnh trợ hóa cho thầy mình là Tiên Giác-Hải Tịnh trong đàn “chọn người làm Phật” ở Tây An cổ tự (núi Sam-Châu Đốc). Như Hiển-Chí Thiền (Phi Lai, núi Voi-Châu Đốc, người mà Thích Thiện Hoa (viện trưởng VHĐ) luôn ca ngợi vào hàng:“danh đức sáng chói miền Nam một thuở”.
Do từ công hạnh Tổ đạo mà thông điệp Phật-đà đượm nhuần cây cỏ, núi sông và hương đức hóa còn mãi trên khắp vùng sông thiêng, núi linh. Tổng trấn Gia Định-Trịnh Hoài Đức đã ca ngợi lão Pháp sư Tổ Tông-Viên Quang điều nầy được ghi lại trong Gia Định thành thông chí. Cũng như Tổng đốc An Giang-Doãn Uẩn đã dựng chùa Tây An, núi Sam (Châu Đốc), rồi thỉnh Tổ Hải Tịnh-Tiên Giác về làm trụ trì. Bấy nhiêu đó cũng đủ cho thấy bên cạnh sự nghiệp của các bậc Tiền hiền “sanh vi tướng, tử vi thần”, người mà được dân làng tôn vinh còn có công hạnh của bậc Tổ đạo, người thêm sức sống cho đất nầy nở hoa. Thật vậy:
Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của Tổ tông.
Đó chính là sắc màu về chân dung toàn cảnh Phật giáo Đất Phương Nam, điều mà không thể nói khác đi được. Như vậy, đạo pháp-dân tộc chỉ với chừng ấy đã đủ mà không cần phải thêm thắt gì khác theo kiểu “vẽ rắn thêm chân”. Phật giáo luôn tự khẳng định mình rằng: “không thể có được một đạo pháp huy hoàng bên cạnh một dân tộc điêu linh”; rằng “mặt trời mặt trăng cùng sáng, mỗi cái có vẻ chiếu sáng riêng của nó” (nhật nguyệt câu minh, các hữu sở chiếu) đó chính là Tông phái dung hợp (dung hợp Tông) mà cũng là cương lĩnh Phật lý trong hành trang “lật đá khơi ngòi giếng” của Tổ đạo Phật giáo Đất Phương Nam. Tất cả đều theo Tông chỉ Vô Tận Đăng ở thành Tỳ-da-ly ngày trước mà làm nên việc Phật, góp phần đưa vận nước, thế đạo qua hồi lửa đạn, chiến tranh.
Việc Phật luôn trong lòng người con Phật. Xem việc Đạo như việc nhà (hoằng pháp vi gia vụ); lấy lợi sanh là sự nghiệp, đó là gương sáng ngàn đời của bậc Tổ đạo Phật giáo Đất Phương Nam cho thế hệ Tăng trẻ ngày nay noi theo.
Những gì cao, sâu, mầu, diệu của Tổ ấn hay những Phật lý với năm tầng “nghĩa huyền” (ngũ trùng huyền nghĩa) thì đó là việc của nhà chuyên môn. Ở đây, trong lòng người bình dân Nam bộ không hỏi điều cao xa theo kiểu “ngàn sông có nước, trăng ngàn bóng, muôn dặm không mây, muôn dặm trời” (Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt, vạn lý vô vân vạn lý thiên) mà chỉ xin cho một câu bình dị để làm lời mẫu mực cho cuộc sống đời thường. Thì xin thưa rằng: Tổ đạo đã Phật sự viên thành, huyễn thân giả biệt, thế nhưng “Trước chùa sông núi ấy chân hình” (viện tiền sơn thủy thị chân hình). Pháp thân kệ cũng chính là Xá Lợi Pháp Thân, như người sau theo hướng đó mà đi thì chắc rằng sẽ cùng với Tổ đức mà chung dòng bạn đạo (pháp lữ chung dòng). Mà Pháp thân kệ là gì? Ai ơi,
Trên điện báu canh dài mõ trổi rằng:
Nhất trần bất nhiễm Bồ-đề địa,
Dưới xóm nghèo đêm thâu trẻ khóc nầy:
Vạn thiện đồng qui Bát nhã môn.
Đó cũng chỉ là nét phác họa bước đầu bức tranh toàn cảnh về Phật giáo Đất Phương Nam còn những gì cao xa hơn mà chưa được sáng tỏ, thì người học sau còn đang trông đợi ở những nhà chuyên môn.
Sơn Tùng. (Hết)
[Tập san Pháp Luân - số 2, tr.24]
VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO ĐẤT PHƯƠNG NAM
Nét chính
I. Giới thiệu
II. Thời điểm và Ngả đường thành hình Phật giáo Đất Phương Nam
III. Đất Phương Nam
IV. Người Phương Nam
V. Phật giáo Đất Phương Nam
Nội dung
I. Giới thiệu
Định hình nên dòng chảy Phật giáo Việt Nam có thể phân làm bốn vùng không gian:
• Phật giáo Đất Luy Lâu
• Phật giáo Đất Thăng Long
• Phật giáo xứ Huế (cũng có thể gọi là Phật giáo Thuận Quảng: Thuận Hóa - Quảng Nam)
• Phật giáo Đất Phương Nam
Nội dung bài nầy nói về Phật giáo Đất Phương Nam.
Bức tranh toàn cảnh Phật giáo Đất Phương Nam có màu sắc đặc thù mang tính dung hợp, dung hợp tộc người đa chủng dung hợp văn hóa giao lưu, dung hợp văn minh quần tụ và đặc sắc hơn cả là dung hợp tông phái Phật giáo. Từ trước, nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học, kể cả cán bộ chuyên trách về tôn giáo, v.v… tất cả, họ đã phác họa nên nhiều nét về Phật giáo Đất Phương Nam qua nhiều tham luận, hội thảo, sách báo v.v... như, nhiều tác giả, Hội thảo khoa học 300 năm Phật giáo Gia Định - Sài Gòn - Tp. Hồ Chí Minh, Nxb TP. HCM; Trần Văn Giàu - Lịch sử phát triển tư tưởng Việt Nam T.1 & 2, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 1975; Lê Cung - Phong trào Phật giáo 63, Trần Hồng Liên - Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam bộ, Nxb KHXH 2004, Trần Trọng Kim - Phật giáo thuở xưa và nay, Sài Gòn 1953; Hòa thượng Thích Thiện Hoa - 50 năm chấn hưng Phật giáo, Sài Gòn 1971, Vân Thanh - Lược khảo Phật giáo Việt Nam, Sài Gòn 1974, Quốc Tuệ - Công cuộc tranh đấu của Phật giáo Việt Nam, Sài Gòn 1964; Gia đình Phật tử miền Liễu Quán - Kỷ yếu 50 thành lập gia đình Phật tử, Hoa kỳ 2000; Kim Đạt - Lịch sử gia đình Phật tử, Phật học viện quốc tế Hoa Kỳ 1981; Nguyễn Hiền Đức - Lịch sử Phật giáo Đàng trong. Học giới nói về chủ đề nầy riêng có Nguyễn Hiền Đức là cây bút đã phác họa nên những nét cốt lõi của Phật giáo Đất Phương Nam. Từ đó, sinh hoạt Phật giáo Đất Phương Nam qua nhiều mặt đã được bàn đến như: Chấn hưng Phật giáo, Chùa xưa Phật giáo, Giáo dục Phật giáo, Hình thái Tổ chức các hội Phật giáo, Phong trào Phật giáo, Văn hóa Phật giáo, mà trong đó chủ đề cốt lõi là Truyền thừa Phật giáo (hay dòng-phái Phật giáo). Để góp phần tìm hiểu chân xác hơn về Phật giáo Đất Phương Nam trong bối cảnh không gian và thời gian mà công hạnh Tổ đạo đã dày công trải rộng thông điệp tình thương Phật đà trên vùng đất mới; cũng để từ đó định ra một hướng đi hoằng pháp trong thời đại mới trên nền tảng kế thừa truyền thống 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam đã đề ra: Đạo Pháp trong lòng Dân tộc.
Với đôi điều suy nghĩ như thế, vài nét về Phật giáo Đất Phương Nam được giới thiệu theo mấy tiêu đề như sau:
II. Thời điểm & ngả đường thành hình Phật giáo Đất Phương Nam
1. Thời điểm thành hình Phật giáo Đất Phương Nam
Năm 1698 là mốc thời gian chính thức thành lập vùng đất Sài Gòn -Gia Định, từ đó mở ra một giai đoạn mới cho sự phát triển trên vùng Đất Phương Nam. Đi những bước song hành cùng với đoàn người mở đất, Phật giáo cũng đã gieo hạt trên vùng đất mới. Cũng ví như mạch nước ngầm, thêm sức sống cho sự sống, khi mà đất cho mùa, vụ, làng được dựng lên, thì cũng là lúc niềm tin Phật nở hoa trong lòng người xa xứ theo âm điệu mõ sớm với chuông chiều: “Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo, của làm duyên chớ ngại bao nhiêu, phép thiêng biến ít thành nhiều, nhờ trên Tôn giả chia đều cho chúng sanh”. Tuy nhiên trước thời điểm làng xã được thành hình thì người dân đi mở đất cũng như bước chân truyền giáo của bậc Tổ đạo đã có mặt trên vùng đất mới từ bao đời rồi. Thời điểm Phật giáo vào Đất Phương Nam được biết là vào đầu thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20 Tây Lịch.
2. Ngả đường thành hình Phật giáo Đất Phương Nam
Trước đời Gia Long (1802-1819) Đất Phương Nam có tên là Gia Định thành. Đến đời Minh Mạng (1820-1840) đất Nam Kỳ được chia làm sáu tỉnh, từ đó đất nầy còn có tên gọi là Nam Kỳ lục tỉnh.
NHÀ NGUYỄN NAM KỲ
Lục tỉnh:
1. BIÊN HÒA
2. GIA ĐỊNH
3. ĐỊNH TƯỜNG
4. VĨNH LONG
5. AN GIANG
6. HÀ TIÊN
Ngả đường Phật giáo định hình nên vùng Đất Phương Nam có bốn nguồn chính, đó là:
• Phật giáo Huế vào:
Nguyễn Hoàng vào trấn giữ Thuận Hóa, năm 1601 chúa cho dựng chùa Thiên Mụ (chùa được dựng trên nền chùa cũ của người Champa). Quốc chúa là người dùng Phật giáo để trợ hóa trong chính sách An Dân, do đó Phật giáo sớm phát triển và trải rộng vào Nam. Phật giáo Đất Phương Nam đón nhận Phật giáo Bắc tông từ nguồn Phật giáo Huế mà bên cạnh đó có pha trộn ít nhiều tính chất Phật giáo cung đình. Đào Duy Từ một công thần của đất Nam Hà, ông học Phật, hiểu sâu tư tưởng Phật giáo thâm thúy. Ông có soạn vở tuồng Đấu Chiến Thắng Phật, từ đó cho thấy bằng loại hình sân khấu qua con đường văn nghệ ông muốn Phật hóa Nam Hà.
• Từ Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) Trung Hoa đến.
Trần Thắng Tài là một trong những tướng lưu vong của nhà Minh, không về phục nhà Thanh, ông đã cầm đầu đoàn thuyền sang Đại Việt lánh nạn, nhóm người nầy được chúa Nguyễn cho định cư ở vùng Đồng Nai - Biên Hòa. Trong số đoàn người di cư nầy có cả những nhà sư Phật giáo. Chính vì thế đoàn người Trần Thắng Tài đã có người đóng vai trò “lật đá khơi ngòi giếng” cho hoa từ bi chớm nở trên vùng Phật giáo Đất Phương Nam vào thế kỷ 17.
• Từ Campuchia xuống, thuộc Phật giáo Nam tông.
Năm 1936, Hòa thượng Hộ Tông đem Phật giáo Nam tông từ Campuchia vào vùng Đất Phương Nam. Từ đó Phật giáo Nam tông định hình trên vùng đất này.
• Yếu tố Phật giáo bản xứ trên vùng Đất Phương Nam.
Nhiều nơi trên vùng Đất Phương Nam còn sót lại dấu vết chùa cũ trên vùng đất Chân Lạp của người Khơ me trước khi Phật giáo Huế vào đây, điển hình là chùa Gò (Phụng Sơn) Gia Định được dựng trên nền chùa cũ của người bản xứ. Rải rác nhiều chùa khác, người ta đào được tượng Phật, chuông đồng, đồ dùng trong nhà chùa, kể cả phù điêu có nội dung Phật giáo; điển hình là Pháp thân kệ khắc trên lá vàng mỏng được tìm thấy ở gò Xoài, Long An. Như vậy yếu tố bản địa từ Phật giáo Chân lạp (Founan) còn sót lại trên vùng Đất Phương Nam, nhân tố nầy đã duy trì niềm tin Phật cho cư dân nơi đây trước khi Phật giáo Bắc tông truyền vào xứ này.
ST. (Còn tiếp)
[Tập san Pháp Luân - số 1, tr.8]