Trang 1 / 2Thần thông và nghiệp lực là hai trong những thuật ngữ phổ thông nhất, hầu như người con Phật nào cũng hiểu và biết được.(TTL)
B. Nghiệp lực qua cuộc đời Tôn giả Mục-kiền-liên:
Nếu thần thông của Tôn giả Mục-kiền-liên là cánh diều no gió tung bay trên trời cao để hoằng hóa độ sanh một cách tự tại, thì những nghiệp bất thiện mà Tôn giả đã tạo trong tiền kiếp lại như tảng đá lớn níu dây diều trở lại, để rồi cuối cùng khi trời ngừng gió thì cánh diều lại rơi. Yếu tố này trong các kinh sách Phật giáo gọi là: “thần thông không thắng được nghiệp báo”.
Cuộc đời của Tôn giả Mục-kiền-liên từ trong vô thỉ kiếp luôn ẩn chứa những nghiệp cực thiện và cực ác, để đến kiếp sau cùng mọi hậu quả tốt xấu đều hiện hành. Điều này thể hiện rất rõ nét qua hai yếu tố thần thông và nghiệp lực để lại bao suy tư, lo âu nhưng chứa dựng những điều kính phục sâu xa trong hàng triệu trái tim của người con Phật đến bây giờ và mãi ngàn sau. Trong vô lượng kiếp, Ngài đã từng cùng với Tôn giả Xá-lợi-phất quì dưới chân đức Phật Anomadassi để cúng dường và dâng lời phát nguyện trở thành Đại đệ tử của đức Phật Thích-ca, tạo một nghiệp cực thiện mà muôn triệu người khác không dễ gì làm được. Trong vô biên kiếp trước, Ngài đã từng cúng dường và phát nguyện cầu chứng thần thông trước sự chứng minh của một vị Bích-chi Phật, để rồi đến đời sau cùng, Ngài chứng đắc đệ nhất thần thông giữa muôn ngàn đệ tử của đức Phật v.v… Tích tụ thiện nghiệp trong nhiều đời nhiều kiếp như thế, đến đời sau cùng Ngài xuất gia tu tập, chứng được Thánh quả, siêu xuất luân hồi.
Bên cạnh những thiện nghiệp mà Ngài đã làm trong vô lượng kiếp trước, thì cũng có những nghiệp bất thiện mà Ngài đã tạo trong những kiếp lâu xa. Trong những đời quá khứ lâu xa ấy, Ngài đã từng nghe theo lời người vợ độc ác, đánh đập, bất hiếu với cha mẹ; đã từng làm nghề chài lưới để sát hại hàng triệu sinh linh… từ đó đã tạo nên những nghiệp cực ác, cho đến kiếp sau cùng, dù đã chứng đắc quả vị Vô sanh cũng vẫn phải trả những món nợ xa xưa ấy. Những điều trên cho ta thấy rằng, năng lực của nghiệp rất công bình, thể hiện rất rõ nét và xuyên suốt cuộc đời Ngài. Thần thông là yếu tố siêu phàm nhưng không thể chuyển đổi được nghiệp lực mà mình đã tạo, điều đó thể hiện rất rõ nét qua những đặc điểm trong đời Ngài, đặc biệt là ba yếu tố sau: thần thông đối với dòng họ Thích, thần thông với mẫu thân và thần thông với nghiệp của Ngài.
1. Thần thông với dòng họ Thích:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.”
Hai câu thơ trong tác phẩm truyện Kiều bất hủ của Nguyễn Du đã thuyết minh được phần nào về giáo lý Nghiệp của đạo Phật. Nghiệp là hành động của thân, khẩu và ý có tác ý . Trong suốt dòng sanh tử vô tận, con người đã tạo rất nhiều nghiệp thiện và ác; tất cả những nghiệp thiện, ác ấy dẫn đến sự khác biệt của muôn người với nhau. Nghiệp không phải là cái gì bất biến, mà nó luôn biến đổi theo thời gian và không gian, tùy theo những hành động của con người, của chúng sanh và không bao giờ mất đi được; đã tạo nghiệp thì hiển nhiên có quả báo.
Thuở Phật còn tại thế, vua Tỳ-lưu-ly thuộc nước Kiều-tất-la đã đem quân sát hại dòng họ Thích để rửa mối hận trong thuở thiếu thời. Mối hận ấy bắt nguồn từ sự thiếu chân thật của vua Ma-ha-nam, chủ nhân thành Ca-tỳ-la-vệ, thuộc dòng họ Thích. Thuở ấy, vua nước Kiều-tất-la là Ba-tư-nặc, là vua một nước giàu có, binh hùng, tướng mạnh. Ông biết thành Ca-tỳ-la-vệ có nhiều mỹ nữ nên muốn kết thân với nước này. Vua Ma-ha-nam vì thương công chúa xinh đẹp con của mình nên không muốn gả cho vua Ba-tư-nặc, bèn chọn một nàng tỳ nữ thật xinh đẹp tên là Mạt Lợi cho cải trang thành công chúa để gả cho vua nước này.
Tỳ nữ Mạt Lợi vừa xinh đẹp, khôn ngoan, lại phúc hậu cũng rất xứng đáng với ngôi vị hoàng hậu nước Kiều-tất-la. Ai cũng khen ngợi nàng nên vì thế không nghi ngờ gì về thân phận của nàng. Năm tháng dần trôi, hoàng hậu Mạt Lợi đã sanh cho vua Ba-tư-nặc hai hoàng nam tuấn tú đó là thái tử Kỳ-đà và hoàng tử Lưu Ly. Lúc bấy giờ, hoàng tử Lưu Ly còn nhỏ và được phụ hoàng gởi sang vương thành Ca-tỳ-la-vệ để học bắn cung, vì kỷ thuật bắn cung của dân Ca-tỳ-la-vệ rất điêu luyện. Trong lúc đang vui chơi, hoàng tử Lưu Ly thấy một ngôi nhà tráng lệ được trang trí rất đẹp, giữa nhà có đặt một bảo tòa sư tử rất đẹp và cao quí. Thấy vậy, hoàng tử liền leo lên bảo tòa ngồi chơi. Đúng lúc ấy, có một đoàn người thuộc dòng họ Thích đi qua, nổi giận mắng rằng:
“Mi là con của một đứa nữ tỳ hạ tiện, làm sao dám bước chân vào tòa giảng đường linh thiêng của ta, và làm ô uế bảo tòa sư tử này? Mi có biết là bọn ta xây ngôi giảng đường này để tiếp rước bậc Đại Thánh đức Phật Thích-ca về quê không? Làm sao một đứa ti tiện như mi lại có thể đặt chân đến một chỗ thanh tịnh thế này, có mau cút đi cho ta không?”
Hoàng tử Lưu Ly tuy còn nhỏ nhưng đã vốn có lòng sân giận và độc ác nên vô cùng tức giận và nói với Khổ Mẫu (tên người bạn thân, con của tể tướng nước Kiều-tất-la đi cùng với hoàng tử Lưu Ly) rằng:
“Khổ Mẫu! Chuyện hôm nay huynh hãy nhớ giùm tôi, ngày nào tôi lên ngôi vua thì việc thứ nhất là báo thù rửa cái nhục hôm nay.”
Nói xong liền cùng với tùy tùng trở về nước, từ đó cho đến lúc trưởng thành, hoàng tử Lưu Ly luôn ôm mối hận trong lòng. Với bản tánh độc ác và tham tàn, Lưu Ly đã tìm cách giết anh mình là thái tử Kỳ-đà và vua cha để lên ngôi vua. Ngay sau khi lên ngôi vua, việc làm gian ác tiếp theo của Lưu Ly là đích thân thống lãnh quân đội hùng mạnh của nước mình đi tàn sát vương thành Ca-tỳ-la-vệ để tiêu diệt dòng họ Thích.
Với năng lực thần thông siêu việt của mình, tôn giả Mục-kiền-liên biết được thảm hại diệt vong của dòng họ Thích, Ngài đã sử dụng thần thông đem năm trăm người dòng họ Thích bỏ vào bình bát của mình, cứu họ thoát khỏi thảm họa tàn sát của Lưu Ly, nhưng sau khi mở bình bát ra thì hỡi ôi, chỉ toàn là máu!
Đức Phật dạy tôn giả Mục-kiền-liên rằng, thần thông không thể thắng được nghiệp lực mà con người đã tạo ra. Và đức Phật đã kể về tiền kiếp của dòng họ Thích: Vào thời quá khứ, dân chúng thành Ca-tỳ-la-vệ là cư dân sinh sống ở một ngôi làng lớn, gặp kì đại hạn kéo dài, cỏ cây không sống được, lương thực của làng cũng không còn gì để ăn. Trong làng có một cái đầm rất lớn, trong đầm có một con cá khổng lồ tên là Ma-kiệt, vì đại hạn nên nước đầm này cũng khô, cá Ma-kiệt ấy cũng chịu chung số phận sống với chút ít nước còn lại dưới đáy bụng của mình. Cư dân trong làng vì không còn gì ăn nên muốn giết con cá Ma-kiệt này để ăn. Sau một hồi bàn cãi, họ quyết định dùng dao, rựa và rìu để bửa từng mảng thịt của cá Ma-kiệt mà không giết nó, để ăn được lâu dài. Cá Ma-kiệt đau đớn buốt xương, van nài dân làng hãy giết nó đi, đừng hành hạ nó đau đớn kinh khiếp từng ngày như vậy, nhưng cư dân vẫn không chịu nghe lời van lơn của cá Ma-kiệt. Với tâm căm thù kinh khiếp, cá Ma-kiệt đã phát lời thề rằng sẽ giết tất cả dân làng này ở đời sau để rửa hận. Đức Phật dạy rằng, cá Ma-kiệt chính là tiền thân của vua Tỳ-lưu-ly.
Với tâm độc ác của vua Lưu Ly như thế, đức Phật đã cho mọi người biết rằng, trong vòng bảy ngày sau ông sẽ bị thảm họa chết cháy. Nghe lời tiên đoán của Phật, vua Lưu Ly rất kinh khiếp, vội cùng với quần thần lên đại thuyền trốn ra giữa biển khơi để lánh nạn. Bảy ngày trôi qua, đến đêm thứ bảy, một cung nữ của vua đã vô tình làm đổ ngọn đèn, gặp gió lớn ngọn lửa bốc cao, thiêu sống toàn bộ vua quan và thể nữ. Đức Phật dạy rằng: “Lấy oán báo oán, oán thêm chồng chất; lấy ân báo oán, oán ấy mới tiêu”.
2. Thần thông với mẫu thân
Đông phương có những truyền thống rất cao đẹp mà các nước khác ở Tây phương không có được. Một trong những truyền thống cao đẹp ấy là hạnh hiếu. Hạnh hiếu của tôn giả Mục-kiền-liên là một trong những tấm gương sáng ngời nhất. Hạnh hiếu ấy có liên quan đến hai yếu tố thần thông và nghiệp lực.
Sau khi giã biệt cuộc sống hồng trần để bước chân vào con đường xuất thế, Tôn giả Mục-kiền-liên đã nỗ lực tu tập chỉ trong một tuần đã chứng được quả vị Vô sanh, chứng được năng lực thần thông siêu việt nhất. Lúc ấy vì lòng hiếu thảo cao cả, Ngài đã dùng thiên nhãn siêu nhiên quan sát tìm thân mẫu mình đang ở cảnh giới nào hầu mong được đáp đền công đức sanh thành trong muôn một.
Nhưng với thần lực thiên nhãn siêu nhiên ấy, Tôn giả Mục-kiền-liên cũng không tìm thấy mẹ mình. Bởi mẹ Ngài, là bà Thanh Đề lúc sanh tiền đã tạo quá nhiều nghiệp ác: tội không tin Tam bảo, hủy báng Phật, phá hoại Chánh pháp, dối gạt, đánh đập chư Tăng, lại đi phụng thờ ngoại đạo, giết hại sinh linh để tế thần… Những tội nghiệp cực trọng ấy chính là nguyên nhân để bà Thanh Đề chịu khổ đau hành hình nơi địa ngục A-tỳ kinh khiếp nhất. Với tội nghiệp tham lam, bỏn sẻn... bà lại bị đọa đày trong loài ngạ quỉ không được uống ăn. Trường hợp của bà Thanh Đề vừa bị đọa vào địa ngục chịu đủ mọi cực hình đau đớn nhất, lại chịu khổ đói khát của loài ngạ quỉ, đây quả là trường hợp đáng thương, đau xót nhất. Với năng lực thần thông siêu việt, Tôn giả đã quan sát mọi cảnh giới cũng không tìm thấy mẹ mình. Ngài đã thưa cùng đức Phật, đức Phật chỉ nơi thọ khổ báo của mẹ Ngài và ban cho Ngài cây tích trượng để mở cửa ngục Cao-tường thăm viếng mẹ. Nhìn thấy khổ cảnh đọa đày kinh khiếp của mẹ, tôn giả dâng lên mẹ một bát cơm, nhưng hỡi ôi, cơm bốc cháy thành lửa dữ:
“Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giựt của bà.
Cơm chưa đưa đến miệng đà
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu.”
Thần thông đệ nhất cũng đành bó tay không giúp gì được dù đó là người mẹ thân yêu nhất của mình. Rời A-tỳ ngục, Tôn giả Mục-kiền-liên cầu xin đức Phật cứu giúp. Vâng lời đức Phật, Ngài đã thành tâm cung thỉnh đức Phật và chư Thánh Tăng tịnh tu trong ba tháng hạ, thiết lễ trai Tăng nhất tâm chú nguyện, thị hiện năng lực siêu phàm, phóng đại hào quang tiếp độ mẫu thân Ngài và vô số chúng sanh trong địa ngục thác sanh về cõi trời Đao Lợi hưởng phước thanh nhàn.
Ở đây, chúng ta nhận thấy, thần thông và sự chú nguyện của đức Phật và chư Thánh Tăng là một đại duyên lành để trợ lực cho bà Thanh Đề phát khởi tín tâm, ăn năn sám hối những tội nghiệp của mình. Bà Thanh Đề đã hoàn toàn hối lỗi qua chén cơm hóa lửa, qua sự tra tấn cực hình, qua lời thuyết pháp khuyên răn chí tình của Tôn giả Mục-kiền-liên… Tất cả những điều ấy cộng với năng lực chú nguyện của đức Phật, của chư Thánh Tăng… đấy là đại thiện duyên để bà Thanh Đề thành tâm sám hối tất cả tội nghiệp sâu xa của mình, khiến cho thân tâm thanh tịnh, những thiện nghiệp trong tiền kiếp mót từng hạt gạo cúng chùa đã trở về… Đây mới là nguyên nhân chính hợp cùng với đại thiện duyên trên để đưa bà Thanh Đề từ chốn tối tăm, đọa đày, đau khổ, đói khát trong khổ cảnh địa ngục và ngạ quỉ, thác sanh về cõi trời Đao lợi hưởng phước an lành.
3.Thần thông và nghiệp lực của Ngài
Thần thông không thể hoán cải được nghiệp của người khác và cũng không thể vượt qua được nghiệp lực của chính bản thân mình. Chính vì thế mà đức Phật không khuyến khích các đệ tử mình tu tập cầu chứng thần thông. Bởi vì khi có thần thông mà tâm chưa được thanh tịnh thì sẽ phát sanh lòng tham lam, tìm cầu nơi thế quyền, danh vọng… đó chính là rơi vào con đường tu tập của hàng ngoại đạo hay ma Ba tuần…
Thời Phật còn tại thế, có rất nhiều ngoại đạo tu tập cầu chứng thần thông. Họ dùng thần thông để lừa bịp thiên hạ, lôi kéo tín đồ, tìm cầu danh vọng và lợi dưỡng. Từ ngày tôn giả Mục-kiền-liên được đức Phật cho sử dụng thần thông để hóa độ hàng ngoại đạo, phần đông họ đã quay về với Chánh pháp, nhưng vẫn còn một số vì nghiệp lực sâu xa, họ không những không quay về Chánh pháp mà ngược lại họ nuôi lòng căm thù tìm cơ hội để giết hại Tôn giả: “Một hôm trên đường hoằng dương Chánh pháp, Mục-kiền-liên đi qua núi Ý-tư-xá-lê. Bọn lõa hình ngoại đạo thám thính biết rõ lộ trình, chúng tụ tập nhau trên núi âm mưu phục kích. Khi Tôn giả vừa tới nơi mai phục, chúng từ trên núi xô đá xuống. Đá rơi ầm ầm như sấm rền, thác đổ, che lấp cả lối đi. Nhục thân tứ đại của Tôn giả bị đá đập nát, máu tuôn đầm đìa. Thật là rùng rợn! Thật là thảm thương! Vậy mà bọn ngoại đạo lại lấy làm đắc ý, toại nguyện vì đã trả được mối thâm thù. Chúng không làm gì được Phật thì chúng sát hại đệ tử thượng thủ của Phật để làm cho Phật pháp mất uy danh. Tin tôn giả Mục-kiền-liên bị ám hại truyền đến tai đức Thế Tôn và vua A-xà-thế, nhà vua nổi giận hạ lệnh bắt hết cả ngàn hung thủ lõa thể để ném vào hầm lửa, thần thức chúng sa đọa vào địa ngục.”
Đọc qua lịch sử của tôn giả Mục-kiền-liên, gặp điểm này, vẫn không ít người thắc mắc: Tại sao Tôn giả có đệ nhất thần thông lại để bọn ngoại đạo ám hại dễ dàng như vậy? Đối với các bậc chân tu thì chuyện sống chết tự tại như thay áo: cái áo này đã dơ, đã cũ thì nên thay cái áo mới, sạch hơn, đẹp hơn. Thân này đã già cõi, bệnh tật thì nên từ bỏ không cần lưu luyến. Hơn nữa những nghiệp bất thiện mà Tôn giả từng tạo trong quá khứ như giết hại vô số sinh vật trong lúc làm nghề chài lưới, nghe lời người vợ độc ác đánh đập cha mẹ, đem cha mẹ bỏ vào núi rừng… Những nghiệp trong quá khứ như thế đã đến lúc trả quả nên Ngài không sử dụng thần thông để trốn chạy, mà an nhiên nhận lãnh, đó mới chính là tinh thần vô úy, là chân lý của nghiệp. Đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo! Ta không cần báo trước, Mục-kiền-liên đã biết trước rồi. Tôn giả có thể dùng thần thông để bảo vệ mình, nhưng đó không phải là biện pháp cứu cánh, vì nghiệp vẫn cứ đeo mang. Tôn giả biết trước mà vẫn an nhiên tiến đến cái chết vì Ngài muốn trả một lần cho dứt nghiệp hầu an nhàn thành Phật đạo ở mai sau. Cái cao quí nhất là Mục-kiền-liên đã hy sinh tuẫn tử vì đạo pháp, nêu gương sáng cho mọi người, mọi thời. Các ông hãy nêu gương ấy của Tôn giả.”
Nghiệp là một hành động tất yếu của chúng sanh, đã tạo nghiệp ắt phải trả quả, cho dù đó là một Bậc đệ nhất thần thông như tôn giả Mục-kiền-liên cũng không trốn tránh nghiệp xấu của mình. Ý thức được bài pháp sống động qua thần thông và nghiệp lực của tôn giả Mục-kiền-liên, chúng ta hãy cẩn trọng tỉnh giác trong lúc tạo nghiệp của mình, lúc nào cũng cố gắng tạo những nghiệp thiện, nghiệp tốt để tự thăng hoa chính mình ngay trong hiện tại cũng như vô lượng kiếp về sau.
Thích Trí Lộc (hết)
[Tập san Pháp Luân - số 14, tr.14, 2005]