Phật giáo Việt Nam sinh hoạt thời mới vào

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

đạo Phật đến Việt Nam theo 3 ngã đường: thủy, bộ và thủy-bộ. Trong khi đó, Giao Chỉ (old Vietnam) vốn là nơi gặp gỡ giữa hai dòng Phật giáo Nam-Bắc truyền, vì thế, ngay từ rất sớm, đạo Phật đã được “gieo hạt” trên vùng đất nầy.(TP)

(Tiếp theo TSPL.5)

3. Thời điểm đạo Phật đến Việt Nam

Đạo Phật đến Việt Nam vào lúc nào? Có 6 sử kiện cung cấp những thông tin làm sáng tỏ sự có mặt của Phật giáo A-dục (Asoka) (273-232 BC) ở Viễn Đông (Far East), để qua đó đi đến kết luận rằng Phật giáo A-dục cũng đã có mặt trên đất Giao Chỉ.

3.1. Phật giáo A-dục về Viễn Đông

Dưới thời Hoàng đế A-dục, có khoảng 9 đoàn truyền giáo với tên gọi là sứ giả Tổng Giám Chánh Pháp, gồm 256 Tuyên giáo sư do Hoàng đế A-dục đặc phái ra nước ngoài để truyền giáo, đã đến phương Tây, phương Đông và Đông Nam Á. Trong số đó, có 2 vị cao tăng là Sona và Uttara được phái đi đến Xứ Vàng (Suvannabhumi-Land of Gold). Theo nhiều tư liệu đáng tin cậy thì Xứ Vàng là vùng đất chạy dài từ bán đảo Miến Điện đến tận Đông Dương, có một phần của Mã Lai, và vị trí Việt Nam cũng nằm trong vùng đất này.

Để làm sáng tỏ thêm cho vấn đề nầy, chúng ta cần tìm lại dấu tích Phật giáo A-dục ở Đồ Sơn (Hải Phòng, Bắc Việt Nam).

3.2. Dấu tích Phật giáo A-dục ở Đồ Sơn

Đồ Sơn ngày nay nằm cách thành phố Hải Phòng 12 Km về hướng Đông Nam. Việc xác định dấu tích Phật giáo A-dục ở Đồ Sơn vẫn còn là đề tài đang được bàn cãi chưa đến hồi kết thúc. Có nhiều học giả tham gia nghiên cứu đề tài nầy, nhìn chung có thể xếp thành 3 nhóm:

Nhóm phương Tây có Ma-xít-pê-rô và Ma-đờ-rôn; nhóm Trung Quốc có Lưu Hân Kỳ, Lệ Đào Nguyên; nhóm Việt Nam có HT. Thích Đức Nghiệp, GS. Minh Chi; GS. Lê Mạnh Thát, v.v…

Về dấu tích Phật giáo A-dục ở Đồ Sơn, theo Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ cũng như Thủy Kinh Chú của Lệ Đào Nguyên thì: “Thành Nê Lê ở phía Đông Nam huyện Định An, cách sông bảy dặm, tháp và giảng đường do vua A-dục dựng vẫn còn. Những người đốn hái củi gọi là kim tượng”. (Nê Lê thành tại Định An huyện, Đông Nam cách thủy thất lý, A-dục vương sở tạo tháp giảng đường thượng tại hữu, thái tân giả vân thị kim tượng). Tuy nhiên, thông tin nầy còn đang bàn cải chưa kết thúc.

Theo HT. Thích Đức Nghiệp, Hoàng Miễu Trai trong “8 bài thơ vịnh về Đồ Sơn” (Đồ Sơn bát vịnh) có nói đến tượng Phật cổ ở Đồ Sơn, thông tin nầy có liên hệ đến Phật giáo A-dục. GS. Lê Mạnh Thát thì cho rằng cụm từ “nê lê” trong Hán văn thường dùng như một phiên âm chữ naraka của tiếng Phạn, có nghĩa là địa ngục, và “nê lê” có liên hệ gần gũi đến chùa Địa Ngục (thuộc cửa Nam giới vùng núi Tam Đảo) trong vùng Đồ Sơn.

Để làm sáng tỏ dấu tích Phật giáo A-dục ở Đồ Sơn thì cần phải nghiên cứu tận nơi này. Có điều là không phải đơn thuần chỉ có dấu tích Phật giáo A-dục ở Giao Châu mà Phật giáo Trung Quốc cũng một thời nổi lên phong trào tìm chùa A-dục vào thế kỷ thứ 4 và 5. Phong trào nầy có sự tham gia của Thạch Lặc, Thạch Hổ và Đào Khản. Quan trọng hơn cả là thông tin về dấu tích Phật giáo A-dục do ngài Khương Tăng Hội cung cấp.

3.3. Khương Tăng Hội thông tin về Phật giáo A-dục

“Xưa vua A-dục dựng tháp đến tám vạn bốn ngàn ngôi. Phàm việc dựng xây chùa tháp là nhằm để làm rõ phong hóa còn sót lại ấy.” (Truyện Tăng Hội trong Cao Tăng Truyện của Huệ Hạo). Từ lược truyện Khương Tăng Hội (200-280) cho biết mối liên hệ về Phật giáo A-dục như trên. Vấn đề nầy có 2 cách lý giải: Một là trong thời của Ngài và trước đó đã có những bản kinh đề cập đến sự nghiệp Phật giáo của Hoàng đế A-dục. Hai là các nhà truyền giáo Phật giáo A-dục đã đặt chân đến vùng đất Văn Lang và đã để lại phong hóa rực rỡ trong truyền giáo.

Từ thời ngài Khương Tăng Hội trở về trước, nguồn Phật giáo Trung Quốc hay Phật giáo Giao Châu không thấy có một bản kinh nào đề cập đến vua A-dục cả. Như vậy, thông tin Phật giáo A-dục do Khương Tăng Hội cung cấp chỉ có thể giải thích là Phật giáo A-dục đã đặt chân truyền giáo đến Giao Chỉ.  

Nói đến Phật giáo A-dục truyền giáo về Viễn Đông, ngoài ngài Tăng Hội còn có ngài An Thiền (thế kỷ 19). Khi biên soạn “Đạo Giáo Nguyên Lưu” (ĐGNL), Ngài cũng dành riêng một chương để nói về Phật giáo Hùng Vương mà nội dung chương “Hùng Vương Phạm Tăng” liên hệ gần gũi với Phật giáo A-dục ở Giao Chỉ.

Như vậy, thông tin về Phật giáo A-dục được ngài Khương Tăng Hội cho biết là thông tin có giá trị lớn lao, có độ tin cậy cao, bởi người cung cấp thông tin nầy lại là một lãnh tụ Phật giáo Giao Châu.

3.4. Phật giáo Hùng Vương - Sư Phật Quang với Chử Đồng Tử và Tiên Dung

Thông tin Phật giáo Hùng Vương với truyện sư Phật Quang, Chử Đồng Tử và Tiên Dung, nội dung truyện có nguồn gốc từ “Lĩnh Nam chích quái”  (LNCQ) của Trần Thế Pháp đời Trần. Sách được Kiều Phú giới thiệu lại vào năm 1490 và được Vũ Quỳnh san định lại vào năm 1493. LNCQ có truyện “Đầm một đêm” (nhất dạ trạch) đã cho ta thông tin vào đời vua Hùng thứ 3, có nhà sư Phật Quang nước ngoài đã có những đóng góp cho sự truyền giáo trên đất Giao Chỉ. Một trong những dấu ấn còn lại từ sư Phật Quang đó là đào tạo nên đệ tử Chử Đồng Tử và Tiên Dung.

Trong ĐGNL, ngài An Thiền cũng có một chương nói về Phật giáo Hùng Vương. Từ LNCQ đến ĐGNL (thế kỷ 19), dù đã trải qua cả hơn ngàn năm nhưng thông tin Phật giáo vua Hùng nầy vẫn còn được nói đến. Điều nầy chứng tỏ nhiều thế hệ người học sau đều có chung một khát vọng là muốn tìm về sự thật lịch sử chung quanh sư Phật Quang, Chử đồng Tử và Tiên Dung. Bởi Phật giáo vua Hùng chẳng những là một nền Phật giáo sớm nhất của Phật giáo Viễn Đông mà còn là sớm nhất của Phật giáo Việt Nam nữa.

Mặt khác, LNCQ không phải là cuốn sách có nội dung hoàn toàn chuyển tải những thông tin quái đản mang tính thần kỳ (truyện quái đản của vùng Lĩnh Nam) mà trái lại nó còn cung cấp những thông tin có thật về mặt lịch sử nữa. Như về tên đất, núi Quỳnh Vi (Quỳnh Viên) trong truyện Chử đồng Tử. Tên này đã được GS. Lê Mạnh Thát xác định là núi Quỳnh Vi thuộc cửa biển Nam giới, cửa biển này còn được gọi nôm na là cửa Sót. Như truyện họ Hồng Bàng, nội dung nó nói về truyền thuyết Trăm trứng. Truyền thuyết này có nguồn gốc từ bản kinh “Bách tử đồng sản duyên”, nó cũng có nguồn gốc trong Lục độ tập kinh 3 ĐTK152 tờ l4a26-cl8 truyện 23 do Khương Tăng Hội dịch ra chữ Hán vào khoảng những năm 220-250; rồi truyện Tây Qua của LNCQ là một dị bản của truyện 7 trong Cựu tạp thí dụ kinh, ĐTK206 tờ 512al6-b7, cũng do ngài Khương Tăng Hội phiên dịch, v.v… (theo GS. Lê Mạnh Thát, sđd).

Một khi tên đất đã được xác định thì việc nêu tên người: Sư Phật Quang, người nước ngoài có những đóng góp truyền giáo cho Phật giáo Giao Chỉ là một sự kiện lịch sử có giá trị, để từ đó nó góp phần làm rõ nét về việc Phật giáo A-dục có mặt trên đất Giao Chỉ.

3.5. Dấu vết văn học Phật giáo trên vùng đất “Xứ Vàng”

Trên vùng đất “Xứ Vàng”, nơi mà 2 nhà truyền giáo Phật giáo A-dục là Sona và Uttara đặt chân truyền giáo, ngày nay người ta tìm được nhiều chứng tích cho sự thật lịch sử nầy. Một trong những sử liệu điển hình cho sự có mặt Phật giáo trên vùng đất nầy đó là:

1. Minh văn “Duyên Khởi Pháp kệ” chung quanh tháp Phật Thống ở Thái Lan.

2. Minh văn “Duyên Khởi Pháp kệ” trên lá vàng mỏng ở vùng Tỳ Mậu (Prone) thuộc Miến Điện.

3. Minh văn “Pháp Thân kệ” bản vàng ở Mạo Tra (Hmawza) thuộc Miến Điện.

4. Minh văn về “Pháp Thân kệ” trên lá vàng ở Gò Xoài (tỉnh Long An).

5. Minh văn “Pháp Thân kệ” bằng Sanskrit trên Phù Điêu ở Gia Lai.

Như vậy, “Duyên Khởi Pháp kệ” được tìm thấy: Ở Thái Lan có 1; Miến Điện có 2; Việt Nam có 2. Còn trên vùng đất Champa (miền Trung Việt Nam ngày nay) người ta tìm thấy ít nhất 2 nơi có dấu vết văn học Phật giáo bằng cả 2 thứ chữ Pàli và Sanskrit. Một ở Gia Lai, và một ở Gò Xoài (Long An). Năm tháng xưa nhất của cả hai thứ chữ nầy là vào thế kỷ thứ 5-7 TL. Bài kệ như thế này:

Chư pháp tùng duyên khởi
Như lai thuyết thử nhân
Bỉ pháp nhân duyên tận
Thị đại sa môn thuyết.
Các pháp do duyên khởi           
Như lai giảng nhân nầy            
Pháp ấy theo duyên diệt           
Đại sa môn là đây.

Từ minh văn “Duyên Khởi Pháp kệ” hay “Pháp Thân kệ” ở Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam đã cho thấy rõ dấu tích Phật giáo Asoka trên vùng đất “Xứ Vàng”. Qua đó chứng tỏ rằng: 2 nhà truyền giáo Asoka là Sona và Uttara đã để lại dấu tích về văn học Phật giáo Sanskrit ở Thailand, Myanma, thì dấu tích Phật giáo Asoka ở Đồ Sơn, Việt Nam cũng là nguồn thông tin có thể kiểm chứng được.

3.6. Về những bia đá chữ Phạn của Phù Nam (Fou Nan)

Trên vùng đất Chiêm-Lạp (Champa), người ta đã tìm thấy những tấm bia đá chữ phạn Sanskrit: Bia Võ Cạnh, Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa); bia trên mặt tường trụ đá ở Đồng Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp); bia Bati, tỉnh Takeo Campuchia và bia Grailamor ở Ninh Phước, Ninh Thuận v.v…

Bia Võ Cạnh, Nha Trang. Nội dung bia cho thông tin có câu:

“Lòng trắc ẩn đối với muôn loài… trận chiến thắng thứ nhứt… ngày trăng tròn, người tuyên bố trong buổi họp theo vị quốc vương ưu tú của tất cả quốc vương rằng… khi con trẩm và em trẩm cùng người nào khác được thỏa mãn ý muốn chiếm tài sản làm ý riêng… những gì tạo thành kho tàng của trẩm, bạc vàng, những vật hay dời đổi và bất động, tất cả món ấy, trẩm cúng hiến cho họ với niềm vui sướng và sự lợi ích (cho muôn loài).”

Bia Tháp Mười (tỉnh Đồng Tháp). Nội dung bia cho thông tin mà thông tin đó có những liên hệ đến Phật giáo A-dục.

 Bia Bati (tỉnh Takeo Campuchia). Nội dung bia cho thông tin có câu:

“Chức thanh tra tài sản”; “và có nhiều hạng Tổng giám của Chánh pháp, tùy theo thành phần này hay thành phần khác mà có hạng tổng giám này hay tổng giám khác phù hợp”.

Nhóm từ “Chức thanh tra tài sản”; nhóm từ “Tổng giám của Chánh pháp” mà bia đá Bati, tỉnh Takeo Campuchia ghi lại, thông tin chức vụ nầy cũng được thấy ở pháp lệnh 7 khắc trên trụ đá Hồng ở Benares của vua A-dục. Như vậy, đây là bằng chứng sứ giả Tổng giám Chánh pháp của Asoka đã đặt chân đến tỉnh Takeo Campuchia.

Từ thông tin bia đá chữ Phạn Sanskrit trên vùng đất Phù Nam (Founan), các học giả có nhận định rằng:

Theo Lê Hương, (Sđd) thì bia Võ Cạnh, Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa), “Tinh thần của Phật giáo A-dục thể hiện trong bản văn này”.

Chức “Thanh tra tài sản” ở bia đá Bati với chức “Tổng giám của Chánh pháp” ở pháp lệnh vua A-dục (pháp lệnh 7) khắc trên trụ đá Hồng ở Benares là có liên hệ cùng một nguồn (Phật giáo A-dục) với nhau.

4. Nhìn chung về vấn đề ngã đường, thời điểm đạo Phật đến Việt Nam

Ngã đường, thời điểm Phật giáo vào Việt Nam có thể đề ra mấy nhận định như sau:

Có 3 ngã đường và 3 đợt để đạo Phật vào Việt Nam.

4.1.  Ba ngã đường đạo Phật vào Việt Nam:

Ngã Nam truyền: theo đường thủy, đường biển. Các nước Phật giáo nằm trên con đường phương Nam này được gọi là Phật giáo Nam truyền hay Phật giáo Nam tông.

Ngã Bắc truyền: theo đường bộ. Các nước Phật giáo nằm trên con đường phương Bắc này được gọi là Phật giáo Bắc truyền hay Phật giáo Bắc tông.

Ngã Đông truyền: đây là con đường cả thủy-bộ. Các nước Phật giáo nằm trên con đường này được gọi là Phật giáo Đông truyền.

Ba ngã đường thủy, bộ và thủy-bộ là cửa ngõ để Phật giáo đến Việt Nam, trong đó con đường thủy (Phật giáo Nam truyền) đóng vai trò chủ lưu.

4.2. Ba đợt đạo Phật vào Việt Nam

Theo thông lệ chung, Phật giáo đến các địa phương đều theo lịch trình diễn tiến có nhiều đợt; cũng thế, Phật giáo vào Việt Nam có thể hình dung làm 3 đợt.

Đợt 1: Truyền rộng niềm tin Phật.

Đây là giai đoạn Phật giáo quyền năng. Chính do phong hóa, nhà truyền giáo đã tạo nên niềm tin Phật-Pháp-Tăng nơi lòng người. Hình ảnh Tăng sĩ du phương giáo hóa chợt đến, mau đi, không để lại dấu vết. Tất cả đã để lại dấu ấn tâm thức tin Phật sâu bền trong lòng người. Hình ảnh ngài Phật Quang với Chử Đồng Tử và Tiên Dung; ngài Khâu-đà-la (Ksudra) với nàng Mán và Tu Định là những điển hình.

Đợt 2: Hoằng hóa, dịch thuật, biên soạn.

Trong giai đoạn này, Phật giáo “tùy duyên tiếp độ” chú trọng dịch thuật kinh sách, phát huy lớn mạnh niềm tin Phật rộng khắp cho mọi người nơi “vùng đất mới” này. Tăng sĩ du phương trong hình ảnh chiếc y vàng khất thực có thể sống được qua niềm tin Phật nơi người bản xứ. Đây là thời điểm mà đạo Phật mặc nhiên công nhận, có đủ pháp lý truyền giáo, được hầu khắp các tầng lớp xã hội biết đến và ủng hộ. Điển hình như tính chất Phật giáo trước và sau đời nhà Trưng (40-43).

Đợt 3: Phát triển Tăng-Viện “Độ Tăng”.

Trong giai đoạn này, đạo Phật đã “bén rể sâu bền trong lòng người dân bản xứ” và nhu cầu tín ngưỡng được mở rộng, qua đó cần xây dựng phát huy cơ sở cũng như nhu cầu chọn người bản xứ làm Tăng, định hình giáo đoàn, thống kê Tăng-Viện. Cũng từ đây, trung tâm Phật giáo được thành hình để mở rộng sự nghiệp hoằng pháp đến các khu vực chung quanh.

4.3. Con đường Tơ Lụa (the route silk) là một trong những ngã đường truyền giáo của đạo Phật. Qua đó, Phật giáo Ấn Độ truyền rộng ra các nước mà trong đó có Việt Nam.  

4.4. Thời điểm Phật giáo A-dục về Viễn Đông cũng là lúc đạo Phật đến Việt Nam.

Như vậy, với 6 sử kiện điển hình trên cho thấy từ khi Phật giáo A-dục về Viễn Đông cũng là lúc Phật giáo đến Việt Nam.

Một khi Phật giáo Giao Chỉ đã có thời gian dài tương đối đủ bén rể, xanh tươi cành lá, nở hoa và nền giáo học phát triển lớn mạnh. Tiếp sau đó, những trung tâm Phật giáo được thành hình mà điển hình là trung tâm Phật giáo Luy Lâu.

Vậy sinh hoạt Phật giáo Giao Chỉ ra sao và trung tâm Phật giáo Luy Lâu biểu hiện nét sinh hoạt như thế nào?

Tâm Phương.(Còn tiếp)

[Tập san Pháp Luân - số 6]


 

1. Giao Chỉ (Chiao Chih)

* Bối cảnh chính trị-xã hội Giao Chỉ

111 BC-39 AD thời Bắc thuộc

Quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện: An Định, Luy Lâu (Liên Lâu), Cú Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Khể Từ, Tây Vu, Long Biên và Chu Diên.

Giao Chỉ (Chiao Chih) từ trước những năm 40 AD là một nước độc lập có chủ quyền, có pháp luật riêng (Luật Việt).

Sau nhà Trưng (40-43) mất, Mã Viện mở cuộc thanh trừng qui mô, chúng càn quét những lãnh tụ kháng chiến Giao Chỉ, vây bắt hơn 300 “cừ soái”, đưa đi đày sang Linh Lăng1 (Trung Quốc) tạo nên thế chính trị Giao Chỉ bất ổn. Rồi nhiều người đã tìm đường sống trước những đợt thanh trừng qui mô của chính quyền xâm lược phương Bắc bằng cách cải trang vào chùa, hiện trạng đã tạo nên cao trào “ẩn dương nương Phật” sau thời nhà Trưng. Một Thiều Hoa, một Nàng Xuân, một Bát Nàn, họ là những lãnh tụ Giao Chỉ tiêu biểu cho nhóm người “làm lại cuộc đời trong cửa Phật” để chờ ngày nêu cao cờ nghĩa đấu tranh cho độc lập dân tộc.

Từ sau nhà Trưng đến trước Sĩ Nhiếp đất nước lại rơi vào tình trạng nội thuộc Trung Quốc.

Đến sau khi Hán Linh Đế (168-189) băng hà, các phương loạn lạc, chỉ có Giao Châu tạm yên, “các bậc dị nhân phương Bắc” tìm sang lánh nạn (Mâu Tử, tựa Lý hoặc luận).

Đến thời Sĩ Nhiếp, 20 năm (206-226) tự trị, Giao Chỉ tạm yên ổn bên cạnh thế chiến Tam Quốc, là đất tạm yên cho dân lánh nạn từ phương Bắc đến.

Ngô Chí: “Sĩ phu quận Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại tùng chính thành công, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận, hơn hai mươi năm, cương trường vô sự, dân không thất nghiệp, bọn đến trọ ở2 đều được nhờ ơn”. Ngô Chí 4 tờ 7b7-11 cho biết: “Nhiếp và anh em đều là anh hùng các quận, đứng đầu một châu, khắp ở muôn dặm, uy tôn vô thượng (...), đương thời quý trọng, chấn phục trăm man, Úy Đà không đủ hơn”.

248 TL, Bà Triệu khởi nghĩa.

280 TL, Khương Tăng Hội mất

2. Ngã đường đạo Phật vào Việt Nam

Đạo Phật vào Việt Nam theo ngã đường nào? Có 7 sử kiện cung cấp thông tin về ngã đường đạo Phật đến Việt Nam.

2.1. Về mặt địa dư.

Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương vốn là nơi giao lưu giữa 2 nền văn minh xưa nhất Châu Á mà cũng có thể là xưa nhất của cả loài người, đó là 2 nền văn minh Ấn-Hoa, do đó đã tiếp nhận ảnh hưởng do từ 2 phía: Ấn Độ và Trung Hoa.

Lại nữa, bán đảo Đông Dương nằm giữa biển Đông và vịnh Bengale, được tạo thành bởi những dãy núi từ Tây Tạng chạy dài về Đông Nam ra đến biển Đông. Ở giữa các giải núi đó là những thung lũng, cũng là nơi phát nguồn của những con sông lớn như sông Mênam tạo thành đồng bằng Thái Lan; sông Mêkông tạo thành các đồng bằng Campuchia và Nam Việt Nam; và sông Hồng, sông Đà tạo thành đồng bằng Bắc Việt Nam. Với một vị trí giao lưu như vậy, Việt Nam đã trở thành chiếc cầu nối liền sự giao lưu giữa Ấn Độ và Trung Hoa, vì thế Việt Nam còn có tên gọi là bán đảo Ấn-Hoa (Indus-Chinos). Ngay từ những thế kỷ đầu trước lịch Tây, đất Giao Chỉ (old Vietnam) vốn:

Là con đường thông sứ giữa Trung Hoa với các hải đảo Nam Thái Bình Dương.

Là cửa ngõ, trạm dừng chân trong quan hệ buôn bán giữa Ấn-Hoa; giữa Ấn-Hoa với các nước La Mã, Hy Lạp. Nói chung là trong quan hệ buôn bán giữa Ấn Độ với Viễn Đông và Địa Trung Hải.

Là “ngã tư các dân tộc và văn minh” (Crossroad of de civilisation=Carrefour despeuples et de civilisation)3.

2.2. Về mặt thời tiết-gió mùa

Ấn Độ là một bán đảo khổng lồ nằm bên bờ vịnh Bengale, Đông Dương cũng là một bán đảo nằm về Đông Nam Thái Bình Dương. Trong khi đó Giao Chỉ (old Vietnam, là một phần của bán đảo Đông Dương) lại là cửa ngõ đi vào Trung Hoa, do vậy tính chất khí hậu, gió mùa đã trở nên nguyên do chủ yếu quyết định cho tuyến trình giao lưu trên biển giữa Ấn-Hoa; và giữa Ấn-Hoa với các hải đảo Nam Thái Bình Dương. Như vậy, trên hành trình giao lưu trên biển, các thương nhân Ấn phải theo gió mùa Tây Nam để đi về Viễn Đông, qua Đông Nam Á, Mã Lai, Nam Dương, Phù Nam, Giao Chỉ, v.v... Từ Giao Chỉ họ đi vào Trung Hoa. Khi đến Giao Chỉ họ phải dừng chân đến sang năm, chờ gió mùa Đông Bắc để trở về Ấn Độ. Trong khi nằm chờ một năm ròng rã đó, đủ thời gian để họ sinh hoạt giao lưu về kinh tế, nông nghiệp, y học, đặc biệt là về tôn giáo với dân bản xứ.

Trong những chuyến đi xa hằng năm với nhiều tháng lênh đênh trên biển cả như thế, cho nên trong mục đích cầu mong cho trời yên biển lặng, những thương gia Ấn Độ vốn có tín ngưỡng Phật, Bồ-tát mà trong đó tín ngưỡng Phật Nhiên Đăng Dipankara và Bồ-tát Quán Thế Âm Avalokitesvara là tiêu biểu của tín ngưỡng thời bấy giờ nên họ đã thờ phụng Phật, Bồ-tát theo đoàn thuyền. Và trong chuyến đi xa như vậy, họ cũng sẵn lòng đón tiếp, thỉnh mời những Danh Đức, Cao Tăng nào có mục đích ‘đi xa giáo hóa’ theo đoàn thuyền với quan niệm được phúc lành cho chuyến đi, được trời yên biển lặng. Chính do vậy, cho nên các bậc Danh Đức, Cao Tăng Phật giáo đã đi về Viễn Đông và “gieo hạt” niềm tin Phật trên vùng đất mới.

2.3. Về mặt biến cố lịch sử.

Đạo Phật truyền rộng ra các nước ngoài cõi Ấn Độ do nhiều nguyên nhân, mà trong đó có 4 điểm nổi bật:

1. Vào giữa thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, đại đế A-dục (Asoka) (273-232) chinh phạt dân Kalinga đến tận bờ biển Đông Ấn, một số dân bản xứ đã phải bỏ quê hương ra đi tìm đường sống, đây là dịp tạo nên đợt di dân ra nước ngoài.

2. Đến những năm đầu công nguyên, người Kushans vào đánh chiếm Ấn Độ, lại tạo nên đợt dời dân tương tợ.

3. Vào những thế kỷ thứ 1 trước và sau Công nguyên, Phật giáo Đại thừa chuyển hướng hưng thịnh. Bấy giờ các trung tâm Phật giáo được thành hình và dần dần trở nên những trung tâm Phật giáo Đại thừa tiêu biểu mà điển hình là các trung tâm Aramavati và Narajunakonda ở miền dọc biển Đông Ấn Độ. Từ các trung tâm nầy đã đào tạo những “nhà truyền giáo” và cung cấp sản phẩm mỹ thuật như: tượng Phật ra các nước Phật giáo khác.

4. Với khuynh hướng “Chúng sanh vô viên thệ nguyện độ” đã khiến những Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa Ấn Độ, người mà trên đường giáo hóa đã đem chất liệu Phật truyền rộng đến các cõi xa xăm ngoài ngàn dặm.

Như vậy, đạo Phật được truyền rộng ra các nước là do từ nhiều nguyên nhân mà trong đó các xứ trên đảo biển Nam Thái Bình Dương như Indonexia, xứ Đông Dương v.v... đã được “Ấn Độ hóa” (Hinduization), thì nơi đây chính là vùng đất tốt để những nhà truyền giáo phát triển đạo Phật trên vùng đất mới. Theo ông G. Ferrand trong tạp chí Journal Asiatigue juillet aut 1919 khẳng định thì: “Những bước đầu Ấn Độ hóa v.v... xứ Indonexia phải xảy ra trước Công nguyên”4. Việt Nam cũng nằm trong vòng ảnh hưởng “Ấn Độ hóa” nầy và như vậy Phật giáo cũng đã đến Việt Nam trước Công nguyên.

2.4. Về mặt kinh tế.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu về sự lớn mạnh của Ấn Độ vào những năm đầu kỷ nguyên TL, đó là do mở rộng buôn bán.

Bấy giờ, các đế quốc ở Trung Đông, như La Mã, Hy Lạp đang lớn mạnh, sự phát triển buôn bán rất là phồn thịnh, nhất là có nhu cầu lớn về mặt hàng xa xỉ. Trong khi Ấn Độ vào những thập niên đầu của thế kỷ I TL đã có quan hệ buôn bán với các đế quốc La-Hy và do đó Ấn Độ đã thu vào số vàng rất lớn. Rồi bỗng hoàng đế Vespasien (69-79TL) ra lệnh chấm dứt cuộc chảy máu vàng, do đó Ấn Độ vào thế kỷ đầu TL đã buộc phải hướng về Đông Nam Á và Viễn Đông trong quan hệ buôn bán để tìm số vàng mà mình cần (Sewell sđd). Chính do thế đã chuyển trào lưu “Ấn Độ hóa” hướng về Viễn Đông và Phật giáo cũng theo con đường đó mà được truyền bá và lớn mạnh ở Viễn Đông, trong đó có Giao Chỉ (old Vietnam).

2.5. Về mặt ngôn ngữ.

Trên trục giao lưu Ấn-Hoa, Giao Chỉ là nơi thuận lợi về mặt địa dư, thời tiết, khí hậu, v.v… Bên cạnh đó, sự giao lưu về các mặt: văn hóa, xã hội, ngoại giao, chính trị, nhất là về kinh tế ngày càng phát triển, cho nên trên vùng đất Ấn-Hoa nầy, ngôn ngữ giao tiếp cũng được mở rộng trong cộng đồng xã hội. Nói cách khác, Giao Chỉ là đất duy nhất hội đủ những yếu tố cho một thị trường giao lưu quốc tế, nơi đây con người có khả năng giao tiếp bằng hai thứ tiếng Ấn-Hoa; và bằng hai thứ chữ viết Sanskrit-old Chinese. Mà điều quan trọng hơn cả là Đất nầy có thể tìm người thông dịch dễ dàng cho những nhà truyền giáo.

2.6. Về mặt tìm hiểu tên đất, đồ vật xưa.

Các tài liệu sử Trung Hoa có nói đến những vương quốc nhỏ được “Ấn Độ hóa” nằm rải rác ở các đảo biển Nam Thái Bình Dương như Giava (Ye Tiao-Yavadvipa)5, Xumatra, và ở Nam Dương như: Chợ Hạt Tiêu (Takkala), đảo Long Nảo (Karpuradvipa), đảo Dừa (Narikeladvipa), thị trấn Vàng (Kanakapuri) v.v... Đó là những vùng đất rất tốt cho các cuộc dời dân đến ở, và vì thế, số người Ấn dời chỗ ở ra các đảo biển Đông ngày càng nhiều. Vương quốc Phù Nam (Founan) là vùng đất tiêu biểu trong số đó mà lịch sử dựng nước lại do chính người Bà-la-môn Ấn Độ tên là Kaundinya tạo nên vào thế kỷ thứ I TL6

Ngoài ra, tại nhiều nơi trên vùng đất các vương quốc đó, người ta đã tìm thấy nhiều đồ vật xưa còn lại mang đủ loại hình phong phú, từ trang sức cho đến đồ dùng trong sinh hoạt hằng ngày. Tại Ấn Độ cũng như ở Phù Nam (Founan), người ta đã tìm được những đồng tiền vàng của đế quốc La Mã. Tại Quảng Nam tìm thấy tượng Phật Đông Dương, là những kỷ vật còn lại đẹp nhất của trường phái điêu khắc thuộc trung tâm Phật giáo Amaravati Ấn Độ7. Những chứng tích điển hình như thế đã cho thấy sự quan hệ giao lưu giữa Ấn-Hoa với La-Hy (La Mã-Hy Lạp); giữa Ấn-Hoa với Viễn Đông. Chính từ cửa ngõ giao lưu buôn bán nầy, đạo Phật Ấn Độ được truyền ra nước ngoài. Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng nầy, vậy Việt Nam tiếp nhận đạo Phật do con đường nào và từ bao giờ?

2.7. Con đường Tơ Lụa (the route silk).

Ngã đường truyền giáo của đạo Phật.

Giới học giả Tây phương điển hình là Prjuluki, Ông cho rằng Phật giáo truyền ra nước ngoài qua con đường buôn bán (trade). Thật vậy, vào những thế kỷ đầu trước cũng như sau Công nguyên, tơ lụa là những mặt hàng thường dùng trong giới mua bán của nhiều nước lớn. Đạo Phật do theo ngã đường mua bán mà được truyền ra các nước ngoài, nên con đường đem giáo lý Phật đến các nơi còn được gọi là “con đường Tơ Lụa”. Nói cách khác: Con đường Tơ Lụa, ngã đường truyền giáo của đạo Phật. Con đường truyền giáo này:

Theo đường biển, phương Nam, đạo Phật đến các nước Tích Lan (Sri Lanka) Miến Điện (Myanma), Thái Lan (Thailand), Java (Diệp Điều Quốc), Nam Dương (Indonexia), Mã Lai (Malayxia), Phù Nam (Founan), Chân Lạp (Campuchia), Chiêm Thành (Chàm-Champa), Giao Chỉ (North Vietnam). Các nước Phật giáo trong ảnh hưởng phương Nam gọi là Phật giáo Nam truyền hay Phật giáo Nam tông.

Theo đường bộ, phương Bắc, đạo Phật đến các nước vùng cao nguyên Trung bộ Châu Á như: Kế Tân, Khương Cư (Sogdiane), Vu Điền, Qui Tư, Sa Lạc, Cao Xương, Đại Nhục Chi, An Tức, Tây Tạng (Tibet) Mông Cổ (Mogolia), Trung Hoa (China), Đại Hàn (Korea), Nhật Bản (Japan), Việt Nam, v.v... Các nước Phật giáo trong ảnh hưởng phương Bắc gọi là Phật giáo Bắc truyền hay Phật giáo Bắc tông. Ngoài ra còn phải ghi nhận một ngã đường khác nữa đó là:

Theo đường thủy-bộ về hướng Tây-Nam, bắt đầu từ Nam Ấn hay Trung Ấn rồi đến Miến Điện, qua Vân Nam, Lào, vào Việt Nam, mà cũng có thể do từ Miến Điện theo sông Mênam, sông Mêkông, qua Thái Lan hay qua Lào rồi vượt Trường Sơn vào Thanh Hóa, Nghệ An, để đến Việt Nam.

Như vậy đã rõ, với 6 sử kiện điển hình trên cho thấy là đạo Phật đến Việt Nam theo 3 ngã đường: thủy, bộ và thủy-bộ. Trong khi đó, Giao Chỉ (old Vietnam) vốn là nơi gặp gỡ giữa hai dòng Phật giáo Nam-Bắc truyền, vì thế, ngay từ rất sớm, đạo Phật đã được “gieo hạt” trên vùng đất nầy. Tuy nhiên trong buổi “bình minh “của Phật giáo Giao Chỉ (Chiao Chih), con đường thủy từ phương Nam đóng vai chủ yếu và lớn mạnh hơn cả so với con đường bộ phương Bắc cũng như so với con đường thủy-bộ Tây-Nam. Đến đây, vấn đề được đặt ra là vùng đất nào của Việt Nam tiếp nhận Phật giáo đầu tiên.

Tâm Phương.(Còn nữa)

Chú thích:

1. Hậu Hán thư 116 tờ 6a 11
2. “Bọn đến trọ ở” là chỉ cho Sĩ nhân Trung Quốc đến để tỵ nạn, con số lên đến hàng trăm người
3. Nguyeãn Ñaêng Thuïc - Lòch söû tö töôûng Vieät Nam, T.II tr ?
4. Nguyễn Tài Thư chủ biên, Sđd, tr 14
5. Nguyễn Tài Thư chủ biên, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tr14, 1988
6. Lê Hương - Sử liệu Phù Nam. tr 43-51
7. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, T.1, tr 24. 1974

[Tập san Pháp Luân - số 5]