“Lẽ ra nó không nên như vậy”, “Lẽ ra nó phải như thế” là những câu than vãn mà chúng ta thường bắt gặp. Hay nói đúng hơn, đó chính là tâm lý thường tình của nhân loại chúng ta.
Nguyên nhân do đâu? Do chúng ta không nhận thức đầy đủ lý tánh Như Thị của các pháp. Mọi sự vật hiện tượng, dù biểu hiện của nó có thế nào đi nữa, vốn chỉ là sự thể hiện của lý Duyên khởi. Các pháp do duyên sinh, các pháp do duyên diệt. Điều kiện hội tụ thì có sự sinh khởi, điều kiện tán thất thì có sự diệt vong. Tán tụ diệt sinh đều là bất khả tư nghị, đều là “pháp nhĩ như thị”. Mọi sự vật hiện tượng đã là “pháp nhĩ như thị - pháp tánh là như vậy”, nói theo ngôn ngữ đời thường là: “Nó vốn như vậy”, nó tồn vong theo cách mà nó phải thế, cho nên chúng ta không thể “mong nó như thế này”, “mong nó như thế khác”.
Con người cảm thấy bực bội, đau khổ mỗi khi đối diện với thực tế không như ý là bởi họ phản kháng lại cái sự thật rằng “mọi vật tồn tại theo cách mà chúng là”. Với tri thức góp nhặt, khô cứng, con người luôn luôn có xu hướng đóng khung tất cả sự tươi nhuận của cuộc sống. Họ ước lượng thực tại qua những khái niệm mà họ đã xây dựng sẵn. Họ muốn “cái này phải như thế này”, “cái này phải như thế khác” để cuộc sống phải diễn ra một cách đơn điệu như chính bản thân họ, để họ cảm thấy “dễ chịu” trong khi lòng họ đầy ắp những lo toan, muộn phiền. Nhưng rồi vạn vật vẫn cứ thế, vẫn hợp tan theo lý tắc của chúng mà bỏ mặc tham muốn của con người, để con người đứng nhìn chúng trôi qua trong nỗi xót xa bất lực. Con người cảm thấy bất lực bởi con người không hiểu được chúng, không hiểu được lý tắc dẫn sinh ra chúng - không hiểu được các pháp do nhân duyên mà sinh diệt.
“Nó vốn như vậy”, nhưng đã là “như vậy” thì tại làm sao nhà Phật nói thế gian là khổ? Đó là bởi vì “như vậy” ấy không thỏa mãn nỗi khát ái của con người. Con người muốn có một “như vậy” khác, thế nhưng cái “như vậy” mà họ mong ước ấy không trở thành hiện thực. Mong ước là mong ước cái “chưa có”, cái “chưa có” một khi trở thành “cái có” thì nó không còn là cái để con người mong ước. Cho nên, nếu con người có thể sẵn sàng chấp nhận một cách bình thường những gì xảy đến mà trong lòng không hề mong ước thì họ không còn đau khổ nữa, bởi chính ước muốn ấy - thái độ chấp trước đối với người, cảnh, vật - đem lại đau khổ hơn là chính bản thân sự việc. Người tiều phu suốt đời chỉ có một manh áo vá và chiếc rìu, nhưng không vì thế mà cảm thấy đau khổ; trái lại, vị vua cai trị cả vương quốc mà lòng vẫn thấy không vui.
Vì ao ước có một “như vậy” khác, con người đã “bào chế” ra những nguyên tắc để quy ước cuộc sống, tạo ra những mô hình để mọi người rập khuôn theo: “Anh phải như thế này”, “anh phải không như thế này”. Thực sự con người đã tạo ra những mối nhợ để tự ràng buộc lấy chính họ. Con người sẽ đau khổ càng nhiều nếu họ càng tạo ra nhiều phép tắc để khống chế sự vận hành của thế giới, bởi dù cho họ cố gắng cưỡng bức thế giới tuân theo những phép tắc của họ bao nhiêu đi nữa thì những phép tắc ấy vẫn thường xuyên bị phá vỡ. Tại vì sao? Tại vì “pháp nhĩ như thị – nó vốn như vậy”. “Nó vốn như vậy” là phù hợp với thực tại, phù hợp với lý duyên sinh, phù hợp với pháp tánh. Nếu con người đặt ra quy luật để cưỡng bức sự vận hành của cuộc sống thì không còn là “nó vốn như vậy” nữa, cuộc sống sẽ không còn êm đềm như vũ điệu của thần Shiva. Kết quả tất nhiên là quy luật sẽ bị phá vỡ và khi ấy đau khổ sẽ kèm theo.
Chúng ta thường thấy, khi con người lớn lên trong môi trường có nhiều quy định “nên” và “không nên”, cách cư xử của họ bị quy tắc hóa và tự động hóa rất nhiều. Tính sáng tạo và nhạy bén của họ bị vùi dập không có dịp để phát triển. Họ trở thành xơ cứng trước sự biến chuyển không ngừng của thế giới, chỉ biết “nên” và “không nên” mà không biết tự hỏi về sự đổi mới, sáng tạo. Vì thế khi gặp sự việc trái ý thì họ chỉ biết bực bội, kêu la, phản kháng; không biết “nó vốn như vậy” để tùy thuận mà hành sự, để chấp nhận trong tâm thái cảm thông. Có chấp nhận thì mới có cảm thông, nếu cứ một mực mang tâm trạng phản kháng thì làm sao có thể trải lòng ra mà cảm thông được.
Vì vậy, bí quyết là Việc gì đến, cứ để cho nó đến một cách tự nhiên, bình thường. Chúng ta chỉ cần ý thức được chúng đang đến. Nếu ngay giây phút đang đến ấy mà chúng ta ý thức được nó thì có nghĩa rằng chúng ta đang cảm nhận được những gì đang biến chuyển trong tâm ta chứ không chỉ có sự biến chuyển của thế giới xung quanh. Ở đây, câu nói “nó vốn như vậy” như một câu thần chú nhiệm mầu. Bất cứ điều gì xảy ra, ở bất cứ đâu và bất cứ thời điểm nào, chúng ta chỉ cần dùng câu nói “nó vốn như vậy” để quán chiếu, lập tức sự an lạc sẽ có mặt trong tâm chúng ta. Một khi thể nghiệm được “nó vốn như vậy” thì sự an tịnh nội tại của chúng ta không còn bị ngoại cảnh chi phối.
Việc gì đến, cứ để cho nó đến một cách tự nhiên, bình thường không có nghĩa rằng chúng ta không thể làm gì khác hơn để kiến tạo đường hướng cho sự việc xảy ra theo ý muốn của mình; nó chỉ có nghĩa rằng ta bằng lòng với những kết quả đạt được hơn là chấp chặt vào chúng. Điều cốt yếu cho việc xử lý những tình thế, ý tưởng, và tình cảm có tính thử thách không phải là ở sự kháng cự lại chúng, mà đúng hơn, là ở việc trở nên chấp nhận chúng một cách đầy đủ như mức ta có thể. Đón nhận những gì đang xảy đến, cả những gì chúng ta đang nghĩ và cảm, dù cho điều đó không thoải mái. Mặc dù thoạt nhìn có vẻ nỗi bực dọc được tạo ra bởi những điều mà chúng ta phản kháng, nhưng thực chất, nó đến từ chính sự phản kháng. Hơn nữa, phản kháng là biểu hiện nỗi bất lực của con người trước cuộc sống. Bao giờ sự phản kháng chấm dứt thì đau khổ của con người mới được trừ diệt.
Mỗi khi trong người cảm thấy có sự phản kháng, hãy nhìn vào thực tại và nghĩ đến “nó vốn như vậy” để tiếp nhận sự việc với tâm thái chấp nhận. Thật nhiệm mầu, khi không còn sự phản kháng, tâm chúng ta trở nên trong sáng và tính sáng tạo cũng bắt đầu trổi dậy, đồng thời tâm ta tràn đầy niềm vui và dễ cảm thông hơn.
Hướng Thiên.
[Tập san Pháp Luân - số 5]