Bức "Tứ bình" đặc sắc về tư tưởng vô thường trong văn học Việt Nam - Phần 1

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times



Quan điểm này, theo chúng tôi, thiết tưởng cần bàn luận lại. Trong văn học Việt Nam hiện đại, hiếm khi đọc thấy những khái niệm như “Phật”, “vô thường”, “vô ngã”, “khổ”, “không”, v.v… nhưng điều đó không cho phép kết luận dòng chảy tư tưởng Phật giáo Việt Nam đã khô cạn trong dòng sông Văn học Việt Nam. Dòng chảy, vẫn đồng hành cùng văn học Việt Nam, tuy nhiên, tư tưởng Phật giáo có thể không được phát biểu trực tiếp, không hiển lộ ra bề mặt nhưng vẫn tồn tại đằng sau các tác phẩm, ẩn đằng sau các hình tượng nghệ thuật, câu chữ, ý tứ của các tác phẩm, thậm chí là tác phẩm của những nhà văn vô thần hay theo các tôn giáo khác. Chúng tôi sẽ lần lượt nghiên cứu (nên dùng chữ khảo sát) một số tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại và cận đại để khẳng định điều này.

Ở đây, trong bài viết này, chúng tôi xin chọn tác phẩm Ông đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên, một nhà thơ xuất sắc trong dòng thơ hiện đại Việt Nam, được nhiều người biết đến, giữ một giá trị đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam. Bài thơ Ông đồ đã được vẽ thành tranh (bởi họa sĩ Bùi Xuân Phái), được phổ nhạc (bởi Vinh Sử), và hàng năm, cứ mỗi độ Xuân về thì lại thấy diễn ngâm trên các đài phát thanh, truyền hình.

Nhà thơ Vũ Đình Liên

Ông là một nhà thơ lớn và là một trí thức lớn. Vũ Đình Liên sinh năm 1913 tại Hà Nội, đỗ tú tài, đi dạy học và viết báo. Năm 1940, ông trở thành công chức ở nha Thương chính. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp trong vai trò một văn nghệ sĩ và một nhà giáo. Từ năm 1954, ông dạy Đại học Sư phạm Hà Nội, chủ nhiệm khoa tiếng Pháp Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội.

Vũ Đình Liên làm thơ khi mới 19 tuổi, thuộc thế hệ đầu tiên trong phong trào thơ mới. Nghe nói ông sáng tác cũng không ít, nhưng chỉ đăng báo, chuyền tay mà không in thành tập thơ riêng. Ông trở thành nhà thơ nổi tiếng với chỉ một bài thơ Ông đồ mà chúng ta đang tìm hiểu ở đây. Đọc bài thơ này, các nhà nghiên cứu văn học đều chỉ thấy ở đây “lòng thương người và tình hoài cổ” (theo Nguyễn Văn Long – Đỗ Đức Hiển, dẫn lại ý kiến của Hoài Thanh, Từ điển Văn học, bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2004, tr. 2021). Chưa một nhà nghiên cứu văn học nào thấy ở ông tư tưởng Phật giáo. Trong khi đó, Vũ Đình Liên lại được cho là “phảng phất phong cách Bô-đơ-le ở số phận bi thảm của con người và cái nhìn bí ẩn về vũ trụ” (Sđd, tr. 1022). Tuy nhận định này nói về thơ Vũ Đình Liên năm 1954, song tư tưởng trong tác phẩm của thơ Vũ Đình Liên trước sau đều nhất quán.

Nói tóm lại, từ thân thế và tác phẩm của Vũ Đình Liên, như được ghi lại, không hề thấy một chút gì ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo. Có người còn cho ông có cảm tình đặc biệt với Nho giáo qua hình ảnh ông đồ. Còn, lòng thương yêu đối với con người là vấn đề muôn thuở của nhân loại, mà ở Vũ Đình Liên được cho là ảnh hưởng từ văn học Pháp, bộ môn mà ông nghiên cứu, giảng dạy ở Đại học.

Tuy nhiên, chúng tôi lại quan niệm khác hẳn. Lòng thương người chan chứa trong tác phẩm của Vũ Đình Liên gắn liền với tâm từ của Phật giáo, còn bài thơ đỉnh cao trong số các tác phẩm của ông, bài thơ đã làm nên tên tuổi của ông, bài Ông đồ, là một bài thơ thể hiện bằng hình tượng văn học quan điểm của Phật giáo về lẽ vô thường.

Quan điểm vô thường trong đạo Phật

Vô thường là một trong những quan điểm nền tảng của đạo Phật. Bỏ vô thường ra, đạo Phật sẽ không còn là đạo Phật nữa. Vô thường là một trong bốn “tứ chứng pháp” mà đức Phật di huấn lại, tức là một trong bốn tiêu chí để xác định lại lời Phật. Dù được cho là lời Phật nói, nhưng trái ngược với quan điểm vô thường thì có thể xác định lại đó không phải là lời Phật. Ngược lại, những tư tưởng, phát biểu, tác phẩm trong thế gian có quan điểm vô thường thì có thể coi là phù hợp với lời Phật.

Quan điểm vô thường của Phật giáo cho rằng vạn vật, nhân sinh đều không thường còn, mà luôn luôn biến đổi, chuyển dịch, vận động, sinh diệt… Ngay cả vũ trụ cũng thế. Vô thường đối nghĩa với trường tồn, cố định, bất biến, vĩnh cửu.

Trên quan điểm vô thường, Phật giáo xem tất cả mọi sự vật, hiện tượng gồm cả thế giới, vạn hữu, sinh vật, đời sống con người… trong quá trình tồn tại đều phải trải qua bốn giai đoạn:

Thành: còn gọi là sinh, giai đoạn hình thành, tạo sinh của mọi sự vật, hiện tượng.

Trụ: giai đoạn tồn tại tạm thời, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Hoại: còn gọi là Dị, giai đoạn suy vong, tiêu hoại, đi đến tan rã, cáo chung của sự vật hiện tượng. Gọi là Dị vì trong giai đoạn này, sự vật, hiện tượng trong đời sống vẫn còn tồn tại nhưng đã đổi khác so với giai đoạn thành, trụ, và sự đổi khác đó diễn biến theo hướng tiêu cực, hủy hoại.

Không: còn gọi là Diệt. Sự vật, hiện tượng tan rã, cáo chung, hủy hoại hoàn toàn, trở về trạng thái “không”.

Thành, trụ, hoại, không thường được so sánh với lượn sóng, với đóa hoa… Đã có nhiều tác phẩm nghệ thuật thể hiện tư tưởng vô thường với bốn giai đoạn như trên bằng hình tượng nghệ thuật. Trùng hợp một cách kỳ lạ, bốn đoạn thơ trong bố cục bài Ông đồ của Vũ Đình Liên đã là một sự trùng hợp tuyệt diệu với bốn giai đoạn của vô thường, và do vậy, có thể coi bài thơ là một bức tứ bình về lẽ vô thường. Bài thơ được xây dựng theo trục thời gian. Vô thường là khái niệm được nhìn nhận theo trục thời gian. Thời gian đã tạo nên sự vô thường và cũng chính là vô thường.

Bức tứ bình thứ nhất:

THÀNH
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua”.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh “hoa đào nở”, bài thơ cũng là câu chuyện về lẽ vô thường như cuộc đời của bông hoa “hoa đào nở”, “lại thấy ông đồ già”. Ở đây, tưởng chừng không có sự hình thành, hay sinh ra, mà là lời khẳng định như một quy luật: “hoa đào nở” tất nhiên sẽ thấy “ông đồ già” “mỗi năm”, cũng đều là như thế, vẫn vậy, “lại” là lặp đi lặp lại, không thay đổi. Cứ như thế ư? Bất biến ư?
“Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua”

Hành động của ông đồ “nở” như hoa đào. Câu thơ mở đầu với động từ “bày” và kết thúc với tính từ “đỏ”. Hoa đào – giấy đỏ. Hoa nở thì giấy đỏ. Giấy đỏ cũng là hoa nở. Bức tứ bình thứ nhất, khổ đầu của bài thơ Ông đồ phơi phới không khí sinh thành, khởi sắc xuân.

Nhà nghiên cứu văn học Chu Văn Sơn trong quyển Thơ – điệu hồn và cấu trúc (nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007), một tác phẩm nghiên cứu có phần nào chịu ảnh hưởng của trường phái phê bình cấu trúc hiện đại, đã phân tích như sau về khổ đầu tiên của bài thơ Ông đồ, khổ mà chúng tôi coi là bức tranh của giai đoạn “thành” trong thành-trụ-hoại-không, bốn giai đoạn của vô thường:

“Lời kể, lời trần thuật dẫn dắt ta vào bài: mỗi năm hoa đào nở, lại thấy ông đồ già. Cấu trúc ngôn ngữ chỉ thời gian ‘mỗi năm’… ‘lại thấy’, giới thiệu về một thông lệ. Nó là nhịp điệu hoạt động trong muôn năm cũ của ông đồ. Cái nhịp điệu tưởng đã thành quy luật rồi, không còn di dịch nữa. Hoa đào lúc này là tín hiệu chỉ thời gian, mùa Xuân, lễ Tết. Đồng thời, hoa đào còn là sứ giả của niềm vui, sứ giả của chính ông đồ. Hàng năm, cứ tới độ đào nở hoa trước đất trời xuân, thì cũng là dịp ông đồ trổ tài hoa trước bàn dân thiên hạ. Hoa và người song hành, soi chiếu nhau, tôn vinh nhau. Thật là hợp cảnh. Ba chữ ‘ông đồ già’ đã gợi độ tuổi, còn gợi cả trình độ. Nó làm hiện lên một ông đồ đáng kính cả về tuổi tác, cả độ già dặn trong tay nghề. Hồi ấy, ông đồ thật đắc ý: ‘bày mực tàu giấy đỏ/ trên phố đông người qua’. ‘Bày’ đâu chỉ là động tác bày biện đồ nghề để chuẩn bị hành nghề không thôi, mà giấu trong đó, dường như có cái ý khoe mình, phô bày tài nghệ của mình trước người đời nữa. Giấy ở đây chỉ đơn giản là giấy đỏ thôi, nhưng do tính cộng hưởng của ngôn từ trong toàn văn bản, người đọc biết rằng sắc ‘đỏ’ lúc này bao hàm cả sắc ‘thắm’.” (tr.58-59)

Khổ đầu của bài thơ còn có cấu trúc đối xứng. “Hoa đào” đối với “ông đồ”, “nở” đối với “bày”, “mực tàu giấy đỏ” đối với “phố đông người qua”. Tất cả đều như mở ra, “nở” ra, “bày” ra… Đối ở đây chỉ là đối ý, nhưng mục tiêu của nó đều nhắm đến việc thể hiện cái không khí sinh thành tươi vui, hứa hẹn… khi mà hình thức đối ý vẫn còn, nhưng cục diện cũ không còn thì đó chính là bi kịch. Điều này chúng ta sẽ thấy ở khổ cuối của bài thơ: sự tan vỡ của cấu trúc đối xứng tuyệt đẹp như đã thấy ở khổ một.

Bức tứ bình thứ hai:

TRỤ
Trụ trong bốn giai đoạn của vô thường theo quan điểm Phật giáo là phát triển, tiếp theo giai đoạn một là phát sinh, hình thành. Khổ thứ hai trong bài thơ Ông đồ là khổ trụ, khổ phát triển, hành động, khổ phát triển câu chuyện:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”

Hoa đào nở dần và lộng lẫy khi mãn khai. Ngọn sóng tung lên ở tầm cao nhất với vẻ đẹp kiêu hãnh của nó. Ông đồ cũng như thế. Ông đang ở giai đoạn “trụ” của vô thường. Bây giờ ông không còn chỉ “bày” “trên phố” nữa, tức là không còn ở bên lề, mà đã trở thành tâm điểm “bao nhiều người thuê viết/ tấm tắc ngợi khen tài”. Vị trí ông đồ trong không gian và thời gian chuyển dịch thấy rõ. Đỉnh cao của ngọn sóng triều trong chuyển dịch của vô thường thể hiện ở hình tượng ông đồ được nhà nghiên cứu văn học Chu Văn Sơn phân tích như sau: “giọng điệu hân hoan kiêu hãnh của tác giả (hóa thân vào ông đồ) thể hiện trong nhiều điểm nhấn ngữ điệu: ‘mỗi’, ‘lại’, ‘bày’, ‘đông’…, giờ lại vọng lên ở một điểm nhấn còn mạnh hơn nữa: ‘bao nhiêu’. ‘Bao nhiêu’ đâu chỉ là số từ chỉ số lượng cực kì nhiều! Nó dường như còn là mạo từ với sắc thái kể lể đầy hãnh diện, kiểu người ta vẫn nói thành khẩu ngữ ‘bao nhiêu là bao nhiêu ấy’. ‘Người thuê viết’ là công chúng của nền Hán học, họ xúm xít vây quanh. Đó là thái độ ngưỡng mộ đối với những giá trị văn hóa cao quý. Thái độ ấy làm nên giá trị của ông đồ, vẽ ra sống động cái quang cảnh đắt giá, đắt khách của ông đồ. Ta thấy sự hòa hợp trong bộ ba: hoa đào-ông đồ-công chúng. Đây cũng là sự hòa hợp của thiên nhiên-con người-thời thế. Sự hòa hợp này khiến bầu sinh khí bao quanh như được hun nóng.

Như vậy, màu sắc (hoa đào, giấy đỏ) thì rực rỡ, người quan tâm thì đông đúc, người thuê viết thì xúm xít, người nào cũng góp lời tấm tắc ngợi khen tạo nên sự sôi động, người viết thì đắc ý, kiêu hãnh… Tất cả những khía cạnh ấy cộng hưởng với nhau tạo nên diện mạo thời đắt giá, tạo nên màn cảnh huy hoàng lúc thịnh thời của ông đồ.

Tuy nhiên, về ngôn từ, rất đáng nói là hai câu kết:
‘Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay’

Trước hết, đây là sự hòa hợp tinh vi giữa ngôn ngữ tự sự và ngôn ngữ trữ tình, mà cụ thể là giữa lời tác giả (người kể) và lời công chúng (nhân vật đám đông). Vũ Đình Liên có ý trích nguyên văn lời công chúng nhưng đó chính là hình ảnh đầy ấn tượng của ông đồ trong lòng ngưỡng mộ nhiệt thành của họ. Tính tạo hình thi ca trong ngôn từ thật đáng kể. Chữ ‘hoa tay’ vừa hữu hình, vừa vô hình; ‘hoa’ vừa là danh từ, vừa là động từ. Là động từ, ‘hoa tay’ chỉ thao tác viết thuần thục đã đạt đến điệu nghệ, ngoạn mục của tay viết, hoàn toàn hữu hình. Là danh từ, ‘hoa tay’ chỉ cái năng khiếu tiềm ẩn trong bàn tay. Dường như không phải bàn tay đang làm chuyển động ngọn bút mà chính là cái hoa tay kia đang điều khiển vậy. Chữ ‘thảo’ cũng thế. Nó có nghĩa thông thường là viết, là biên thảo. Nhưng gắn với nghệ thuật thư pháp, dường như ‘thảo’ còn ẩn một nghĩa khác, nói về tay viết đã tới độ phóng túng tài hoa. Hô ứng với nó là cụm từ ‘phượng múa rồng bay’, một thành ngữ. Ta biết thành ngữ này còn có dạng trật tự đảo: rồng bay phượng múa. Ở đây, Vũ Đình Liên dùng theo trật tự này đã tạo ra một giá trị mới cho chữ. Nó không chỉ là một thành ngữ quen dùng trong tình huống cần khen người có chữ đẹp. Các chữ hoa, thảo, múa, bay… là những động từ diễn tả những niềm vui bên trong ông đồ đang hiện hình ra thành từng nét chữ. Chữ là một dạng đồ vật đặc biệt, vừa là sản phẩm của ông đồ vừa là phương tiện nhằm diễn tả trạng thái tinh thần của chủ nhân. Nó đã đẩy cái trạng thái hân hoan kiêu hãnh lên đỉnh điểm. Rất đáng nói là chữ ‘bay’, sự tương tác trong văn bản đã khiến nó có một vẻ đẹp khiến người đọc phải lạnh người. Cũng là ‘bay’ mà ‘bay’ trong ‘phượng múa rồng bay’ là bay lên, với niềm phấn hứng kiêu hãnh. Đó là ‘bay’ vui, còn ‘bay’ trong ‘mưa bụi bay’ lại là bay xuống, bay buồn, đầy ê chề và sầu tủi”. (sách đã dẫn, tr.59-60)

“Trụ” là như thế. Chỉ thấy đời toàn một màu hồng, đi lên, tương lai rộng mở. Ông đồ ở đây đại diện cho nhiều người, nhiều giới. “Bao nhiêu người thuê viết” chắc chắn là thu được nhiều tiền, ứng với người làm ăn được thời, được việc, lợi nhuận nối tiếp lợi nhuận. Đó là lợi. Còn “tấm tắc ngợi khen tài” đó là danh, ứng với giới văn nghệ sĩ… Trụ, với bao nhiêu người cũng như ông đồ cả, kẻ được danh, người được lợi, có người được cả danh lẫn lợi. Đó cũng còn là thời thanh niên của con người, thuở xuân thì của người phụ nữ. Nhưng, vạn hữu đều vô thường.

Nguyễn Minh Phước(còn tiếp)
[Tập san Pháp Luân - số 55, tr.66, 2008]