Trang 1 / 2Tôi đi thăm Yên Tử thuở núi rừng còn hoang vu. Bồi hồi, xúc động. Tôi đi tìm cái gì đó, cái chỗ mà, Cửa che giáo ngọc sum ngàn mẫu. Đá trải lược châu lửng nửa vời(Nguyễn Trãi)?
BÂY GIỜ, THỬ TÌM HIỂU VỀ THƠ.
Về thơ, chỉ có 32 bài và 03 đoạn phiến tìm kiếm được thì quả là không nhiều. Người ta nói rằng thơ văn ngài là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do thích thảng của một nhà nghệ sĩ. Ở đấy cũng thể hiện sự hòa hợp khó chia tách giữa một ngòi bút vừa cung đình vừa bình dị, dân dã, có cả những kiến thức sách vở uyên bác với sự từng trải lịch lãm. Bình như vậy quả là tuyệt; là quá trân trọng một nhà thơ lớn, một nhà nghệ sĩ lớn của dân tộc! Tuy nhiên, có ai ngờ rằng, nhận xét ấy vô tình đã đánh mất một phần nào giá trị minh triết và giá trị thiền học ẩn tàng trong thơ của tác giả. Thơ Trúc Lâm đại sĩ không có chỗ nào là cảm quan triết học cả, có chăng là cảm quan thiền học. Dĩ nhiên, có triết học, nhưng triết học ấy đã bị lặn chìm, mất dấu; lý trí phân tích, suy luận cũng vắng mặt. Cảm quan thế sự ư? Cũng không thấy. Nó có thể có nỗi buồn (Đêm 11 tháng 2, Tây chinh), có thể thương xót người thiếu phụ (Khuê oán), có thể có những tứ thơ khách sáo, xã giao với sứ Tàu - nhưng nhất định không phải là chuyện thế sự, việc đời! Lại nữa, ta phải hiểu rằng, sau khi cả ba phương Bắc, Tây, Nam gươm giáo lặng, Hương Vân đầu-đà trở lại Yên Tử với cảnh tiên, tâm Phật rồi; thì dường như ngài không còn một chút dính mắc gì nơi trần thế nữa: Trói buộc gì đâu, tìm giải thoát? Không phàm, hà tất kiếm thần tiên? Vượn nhàn, ngựa mỏi, người thêm lão. Như cũ, am mây, một chõng thiền! Tiếp theo, Phải, trái, niệm rơi hoa buổi sớm. Lợi, danh lòng lạnh trận mưa đêm. Rụng hoa, tạnh hạt, non yên tĩnh. Còn tiễn xuân tàn, một tiếng chim! Ý niệm về chuyện phải trái nó rơi theo hoa buổi sớm rơi. Cái tâm về lợi danh nó lạnh ngắt giống như trận mưa lạnh ngắt đêm rồi! Và ngay chính cái rơi, cái lạnh ấy cũng không còn nữa, nó rụng, nó tạnh hết rồi, chỉ còn non yên tĩnh mà thôi. Cái non yên tĩnh ấy, có một tiếng chim vừa hót lên, nó đang tiễn xuân đấy! Thật là tuyệt! Kín đáo, ý vị, thi vị, thiền vị đến thế là cùng! Hoặc: Chim hót khoan thai khóm liễu hoa. Bóng thềm nhà vẽ mây chiều qua. Việc đời, khách đến, không buồn hỏi. Cùng tựa lan can ngắm biếc xa. Không những việc đời không buồn hỏi - mà cả trăm việc, ngàn việc cũng như thế: Muôn việc nước xuôi nước. Trăm năm lòng hỏi lòng. Người tu thiền thì chỉ nên quán cảnh, quán muôn việc, lắng nghe tâm, tâm ngữ tâm mà thôi! Đúng là hiển ngữ rạch ròi! Còn lạc quan, yêu đời thì tôi chẳng thấy. Lạc quan, yêu đời là tốt ư? Nó có tốt hơn nhìn đúng chân tướng của sự vật, của muôn pháp không? Phật ôi! Có lạc thì phải có bi, có yêu thì phải có ghét! Đức đại sĩ của chúng ta sao lại còn phải khòm lưng, cúi đầu trong cái tròng nhị nguyên buộc ràng khốn khổ ấy? Xin thưa, thơ ngài chẳng lạc quan, chẳng bi quan; đa phần là nói thực, thấy thực, nghe thực, nghĩ thực; nhưng cái thực cảnh, thực tâm ấy đã được chắt lọc qua cảm xúc tinh tế của nghệ thuật, của thiền tâm! Ta hãy nghe một vài. Khói thu, lạnh lẽo mái chùa xưa. Hiu quạnh, câu thuyền, chuông vẳng đưa. Nước sáng, non yên, âu trắng lượn. Mây nhàn, gió lặng, đỏ cây thưa! Chúng ta để ý: Nước sáng, non yên, gió lặng, mây nhàn... thì sẽ hiểu được cái dụng ý của tác giả. Thế đấy, thực là thơ thiền thì không cần sử dụng ngôn ngữ kinh điển khô khan hoặc khái niệm trừu tượng của lý trí đa sự! Bài khác: Đèn soi nửa cửa, sách đầy giường. Khí lạnh sân thu, rỏ giọt sương. Thức dậy, mơ hồ chày đập áo. Trên cành hoa mộc, ánh trăng vương . Hai câu đầu là thực, tả thực; câu ba là âm thanh ở xa vọng lại, đã đi vào tâm. Câu bốn, chụp bắt ngay được cái thực tại hiện tiền: Trên cành hoa mộc, ánh trăng vừa lên (nguyệt lai sơ)! Tác giả không cần nói, đương xứ tức chân như kinh Đại niệm xứ mà vẫn chụp bắt được cái đang là, cái như thị! Thêm một bài nữa. Xóm trước, làng sau tựa khói lồng. Bóng chiều nửa có, nửa dường không. Đi trong tiếng sáo, trâu về hết. Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.Thật khó mà biết được tác giả có gởi gắm, gói ghém toàn bộ tư tưởng của bài kệ Hữu cú, vô cú siêu tuyệt có, không, chẳng dính mắc có không trong câu 1, 2 hay chăng? Nhưng để nói được ý tưởng đó, tác giả đã lồng ghép, hòa tan tư tưởng thiền với hình tượng nghệ thuật: Đi trong tiếng sáo, trâu về hết! Ngưu quy tận! Hình ảnh bức tranh cuối cùng trong 10 bức tranh chăn trâu hiện ra: Trở lại cội nguồn, về với cội nguồn, vong ngã, vong pháp hoặc trở về với thực tại hiện tiền: Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng - cũng y như nhau, cùng một lập nghĩa!Thế đó, thơ của ông vua thiền sư thi sĩ, đọc đâu tôi cũng thấy ý tưởng thiền được ẩn tàng, không lộ liễu. Có nói đến lòng vị tha. Nhưng nói vị tha thì không chuẩn xác, phải nói là tâm bi mới đúng - đó là bài Trúc nô minh: Tâm không đùa ngạo tuyết. Đốt cứng, dãi dầu sương. Mượn ngươi làm nô bộc. Lại ngại trái tính thường! . Thật là bi mẫn tinh tế hết chỗ nói. Trúc nô, thanh nô, trúc phu nhân là tên gọi một loại gối tựa hoặc gối kê tay đan bằng sậy hay bằng trúc . Nhà vua thi sĩ của chúng ta khi sử dụng chúng vào mùa hè, luôn kề cận ở bên mình, lại chợt nhớ tới các hàng nô bộc ở xung quanh. Ý nghĩa của bài thơ còn là vọng âm của Phật ngôn: Không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn!
VỀ PHÚ.
Thơ thì chữ Hán - nhưng phú thì hoàn toàn sử dụng tiếng Nôm cho ai cũng hiểu được - là một bản tuyên ngôn phong phú, dị giản về đời sống thiền và tông chỉ của phái Trúc Lâm Yên Tử mà ngài đã là sơ tổ. Bài phú Cư trần lạc đạo là một tuyệt tác văn học và thiền học bằng văn Nôm sớm nhất ở nước ta. Nó có nhiều tiếng Việt cổ, nôm na, dân dã mà ngày nay đã mất hẳn. Có cấu trúc biền ngẫu, niêm đối chỉn chu. Có cách sử dụng danh từ, động từ tạo hiệu ứng, nhân hóa, ấn tượng mà ngày nay gọi là phép tu từ! Nhưng không thấy bóng dáng khẩu khí cung đình! Cũng chính ở bài phú nầy mới chứng tỏ kiến thức bác lãm, kinh lịch, một sức học thâm uyên của tác giả. Nó tóm thâu tất cả mọi kinh, mọi luận, mọi ngữ, mọi lục, mọi thoại... và cuối cùng là giải quyết trọn vẹn vấn đề tử sinh đại sự của đời người! Đúng như tuyên ngôn trong Hội 01, mở đề: Mình ngồi thành thị. Nết dụng sơn lâm. Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính. Nửa ngày rồi tự tại thân tâm. Và rồi, dường như đọng lại, tụ lại nơi 4 câu kết: Sống đời vui đạo hãy tùy duyên. Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền. Châu báu trong nhà, đừng kiếm nữa. Vô tâm ngắm cảnh, hỏi chi thiền! Hãy tùy duyên mà sống, tự nhiên như hơi thở, tự nhiên như đói thì ăn, khát thì uống. Cực Lạc, Tịnh Độ, Di Đà, Viên Giác, Kim Cương, Pháp Hoa, tính sáng, tính trong, tính giác, thực tại hiện tiền, bản lai diện mục, vô vị chân nhân, chân như, đàn không dây, sáo không lỗ, khúc vô sanh, thái bình ca... gì gì đó đều có sẵn trong lòng mình; là viên minh châu còn nằm trong manh áo của thân tứ đại rách rưới này! Đừng hỏi gì về thiền nữa, thiền là vô tâm; hai chữ vô tâm lấp lánh, phát sáng. Vô tâm này chắc hẳn không phải của Trần Thái Tông: Chớ bảo vô tâm là đạo vậy. Vô tâm còn cách những ngăn rào. Đúng vậy, vô tâm của Trần Thái Tông là ý niệm vô tâm, chấp vào vô tâm hoặc là không có tâm... Còn vô tâm của Hương Vân đầu-đà là không tính, là duyên khởi nên Không của thiền quán Vipassanā; nó ở ngoài không có, nó sinh ra không có; là không của bên kia hữu cú, vô cú, của giải thoát, của mênh mông hề phương ngoại phương! Nói cách khác, vô tâm của Trúc Lâm đại sĩ nó ở trên phạm trù triết học; chính là tinh yếu, là cốt lõi, là minh triết của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử!
Người ta thường nói, thiền Trúc Lâm Yên Tử là thiền Việt Nam! Đây là dấu hiệu tốt, một ý thức độc lập, tự chủ, muốn ly thoát cái bóng vĩ đại của Trung Quốc đã phủ trùm dân tộc ta về mọi lãnh vực. Tuy nhiên, không có cái gọi là thiền Việt Nam! Yếu tính thiền, yếu chỉ thiền là kiến tánh, thấy rõ thực tánh, liễu ngộ thực tánh thì thiền Nguyên thủy, thiền Đông độ, hay Zen đều giống nhau. Phải nói rằng, Trần Nhân Tông, sau khi tiếp thu trọn vẹn mọi nguồn, mọi tông phái thiền học đương thời, ngài vận dụng thêm tư tưởng nhập thế tích cực hơn để đáp ứng tình thế đất nước -thì khả dĩ hơn. Tôi nói khả dĩ hơn, vì thật ra, cái vận dụng nhập thế tích cực, đạo đời, tăng tục không có biên ranh thì đã có từ thời Lý Thánh Tông với thiền Thảo Đường; và gần nhất là các thiền sư cư sĩ như Ứng Thuận, như Tuệ Trung! Ngài chỉ là người tiếp lửa cho xu hướng Phật giáo nhập thế tích cực ấy! Chính điều quan trọng nhất, mấu chốt nhất, cốt tử nhất mà chưa ai đề cập là: Thiền nhập thế ấy, kết hợp phong phú, sinh động bởi một con người minh triết, là một vị tỳ-khưu, một Hương Vân đầu-đà - mới trở nên một cái gì vĩ đại, là cái dấu ấn vàng son trong lịch sử dân tộc. Nói cách khác, khái quát và dung hợp trọn vẹn hơn: Thiền nhập thế ấy được thổi hồn sống, được tiếp truyền năng lượng tâm linh bởi một nhà văn hóa cầm đuốc dẫn đạo tiên phong phục hồi, duy trì và phát huy ngôn ngữ Việt; một thiền sư sơ tổ Trúc Lâm đại sĩ tầm vóc lớn lao; một nhà tu khổ hạnh tam y nhất bát du phương, một nhà thơ trong sáng và tịnh định hồn thiền; một nghệ sĩ cốt cách mai hoa cam lộ lưu phương - mới chính thật là vô tiền, khoáng hậu! Trong lịch sử thế giới, ở đâu có sự tổng hợp, tương hòa, dung hợp kỳ diệu, tối đại thượng thừa như thế chứ? Không, không có! Và chưa hề có!
Nói tóm lại, dẫu tôi có nỗ lực giải mã một vài tứ thơ và phú của đại sĩ, ở đâu đó, cũng thản như đầu thượng trước đầu, cũng chỉ như tuyết thượng gia sương mà thôi. Tôi đi tìm cái gì đó, mùi thơm của đóa hoa minh triết ư? Thiền sẽ nói, là đi tìm dấu chân trên cát, tượng mây giữa trời! Tất thảy đều vô vọng, bất lực như đang đối diện với hư vô và hố thẳm của ngôn từ! Cuộc đời này, tôi không hiểu, không biết gì đâu; tôi chỉ muốn nói đến con người, một nhân cách thấm đẫm nhân văn. Đại sĩ là vậy. Con người đại sĩ là vậy. Nhưng thời này, mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm thì có được mấy người; hay là đã hòa kỳ quang mà đồng kỳ trần cả rồi? Hay hễ đói thì cứ ăn tự nhiên, hễ khát thì cứ uống tự nhiên như Trúc Lâm sơ tổ?
Tôi cũng đi tìm lại chút hương xưa, nhưng tôi tìm trong thơ, theo cách thi giải riêng của mình! Và tôi biết, phương pháp thi giải thì dễ lẩn thẩn, chủ quan, cảm tính và mơ hồ sương khói lắm; nhưng lạy Phật, hương thơm minh triết vẫn còn đây, vẫn còn bát ngát, khinh phiêu, du viễn giữa trần gian, giữa muôn trùng cát bụi. Và phải chăng, những công trình trùng tu Yên Tử, những cuộc hội thảo như thế này là chúng ta đang sống trong hồn thơ, hồn thiền, trong hương thơm của đóa hoa minh triết ấy?
Và cuối cùng, bài thơ này thì tôi không thi giải được: Thế số nhất tức mặc. Thời tình lưỡng hải ngân. Ma cung hồn quản thậm. Phật quốc bất thắng xuân. Tôi không biết thế là gì, số là gì? Tôi cũng không biết thời là gì, lưỡng hải ngân là gì? Rõ là nơi những con chữ ấy còn ẩn tàng nhiều lớp nghĩa. Đúng hơn là còn bí hiểm! Xin chờ đợi các nhà nghiên cứu, các bậc thức giả, trí giả giải mã cho!
Tôi chỉ tạm dịch: Số đời hơi thở lặng. Tình đời đôi mắt trong. Cung ma vây chặt cả. Nước Phật xuân mênh mông!
Huyền Không Sơn Thượng, Huế
Am Mây Tía (Tử Vân Am)
Tiết mưa lũ - 2008
Chú Thích:
1. Theo toàn tập TNT của GS. LMT.
2. Thơ văn Lý Trần II, tr. 452.
3. Thùy phọc cánh tương cầu giải thoát. Bất phàm, hà tất mịch thần tiên. Viên nhàn, mã quyện, nhân ưng lão. Y cựu, vân trang nhất tháp thiền. Thị phi niệm trục, triêu hoa lạc. Danh lợi, tâm tùy dạ vũ hàn. Hoa tận, vũ tình, sơn tịch tịch. Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn! (Sơn phòng mạn hứng)
4. Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì. Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi. Khách lai bất vấn nhân gian sự. Cộng ỷ lan can khán thúy vi. (Xuân cảnh).
5. Vạn sự thủy lưu thủy. Bách niên, tâm ngữ tâm...(Đăng Bảo đài sơn).
6. Quán tâm, quán pháp của thiền Tứ niệm xứ.
7. Cổ tự thê lương thu ái ngại. Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ. Thủy minh, sơn tĩnh, bạch âu quá. Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ. (Lạng châu vãn cảnh).
8. Bán song đăng ảnh mãn sàng thư. Lộ trích thu đình dạ khí hư. Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ. Mộc tê hoa thượng, nguyệt lai sơ (Nguyệt).
9. Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên. Bán vô, bán hữu tịch dương biên. Mục đồng địch lý ngưu quy tận. Bạch lộ song song phi hạ điền (Thiên trường vãn vọng).
10. xem Thơ văn Lý Trần, q.II, tr. 488.
11. Ngạo tuyết tâm hư. Lăng sương tiết kính. Giả nhĩ vi nô. Khủng phi thiên tính (Trúc nô minh).
12. Xem Thơ Văn Lý Trần II,tr. 485.
13. Cư trần lạc đạo thả tùy duyên. Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch. Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
14. Nguyên văn cả 4 câu: Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý. Bạch vân xuất tụ bản vô tâm. Mạc vị vô tâm vân thị đạo. Vô tâm do cách nhất trùng quan.
15. Kiến tánh là thấy rõ cái chân tánh, cái thực tánh (sabhāva) - xem thêm Thiền Phật giáo - Nguyên thủy và Phát triển của Viên Minh, NXB Tôn giáo, năm 2007.
16. Cam lộ lưu phương - móc chảy mùi thơm (trong bài thơ Tảo mai)
17. Nghĩa: Trên cái đầu, chồng thêm cái đầu - ý nói, ý niệm chồng thêm ý niệm thì che lâp cái chân thực. Câu sau, nghĩa: Thêm sương trên tuyết - tuyết đã che lấp mặt đất, che lấp cái thực địa mà còn phủ lên tuyết một lớp sương nữa. Cả hai câu đều cùng một thiền ý.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
[Tập san Pháp Luân - số 59, tr62, 2009]