Phật và đạo Phật qua vịnh Phật của Nguyễn Công Trứ

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Với tín đồ Phật giáo, Phật đản và Thành đạo là hai ngày lễ lớn trong năm. Phật tử chúng ta cử hành lễ Phật đản để hân hoan đón mừng ngày thái tử Tất-đạt-đa ra đời. Chúng ta tổ chức lễ Thành đạo để thành tâm tưởng niệm ngày thái tử Tất-đạt-đa thành Phật, ngày đạo Phật xuất hiện trên thế gian và trở thành con đường giải thoát khổ đau cho nhân loại.


Rất nhiều người đã nói, viết về đức Phật và Phật giáo. Trong phạm vi của bài viết ngắn gọn này, chúng tôi xin trình bày một số hiểu biết còn giới hạn của mình về hai chủ đề lớn là Phật và đạo Phật mà nho sĩ hiển đạt Nguyễn Công Trứ đã thể hiện trong bài hát nói Vịnh Phật.

Trước hết cần phân biệt miêu tả của phương Tây và ngâm vịnh của phương Đông. Bài văn miêu tả luôn lệ thuộc vào thời gian và không gian. Trái lại, bài thơ ngâm vịnh không chịu sự chi phối của không và thời gian ấy. Miêu tả mùa thu, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu chỉ cho người đọc thấy nét đẹp sinh động, cụ thể của một mùa thu mới bắt đầu xuất hiện với “Non xa khởi sự nhạt sương mờ...” Cũng với đề tài ấy, qua cách ngâm vịnh của nhà thơ cổ điển Nguyễn Khuyến, chúng ta thấy được cái đẹp tổng quát, lý tưởng của mùa thu nói chung với “trời thu xanh ngắt” ở ban ngày và “bóng trăng” thu mát dịu vào ban đêm. Vịnh mùa thu là phải nắm bắt cho được cái hồn muôn thuở của mùa thu. Bài thơ ngâm vịnh ngắn gọn, súc tích và có tính khái quát cao hơn bài văn miêu tả.

Vịnh Phật theo yêu cầu ấy, Nguyễn Công Trứ phải nêu cho được yếu tính của Phật và Phật giáo bằng cách trả lời ngắn gọn và chính xác hai câu hỏi: Phật là gì? Đạo Phật là gì? Nếu đặt hai nghi vấn này với một thiền sư, có thể Phật tử chúng ta sẽ nhận được một câu trả lời “rất thiền”,  đại loại như: Tôi biết đánh trống, tùng tùng tùng, cắc tùng tùng... Tại cửa thiền, vị đạo sư tâm linh trả lời bằng cách không trả lời, để sách tấn đệ tử tự tìm lời giải đáp, vì chân lý đích thực có tiếng nói vang lên từ thâm cung của lòng người. Nhưng sống ở thế gian, phải dùng ngôn ngữ để giao tiếp, Uy Viễn tướng công đã can đảm giải đáp hai vấn nạn ấy một cách súc tích qua khổ thơ đầu của bài hát nói Vịnh Phật:
“Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài.
Chiếc thuyền từ một lá vơi,
Vớt chìm đắm đưa lên cõi tĩnh.”

“Thiên thượng thiên hạ vô như Phật” nghĩa là trên trời, dưới đất không có cái gì giống Phật. Cũng như cái Một tuyệt đối, Phật không có thuộc tính. Chúng ta không thể dùng câu đơn có hệ từ là để định nghĩa, để giải thích Phật. Cũng như định nghĩa tuyệt đối, định nghĩa Phật là tương đối hóa cái tuyệt đối. Ví dụ nói Phật là thiện thì Phật không phải là chân, là mĩ sao? Lại nữa, thiện chỉ là thiện khi so sánh với ác và nếu Phật đã là thiện rồi thì tôi có thể tôn thờ chữ Thiện mà không cần phải thờ phụng Phật nữa. Phật học có thuật ngữ chân như. Phật là cái chân lý như thế... Phật là Phật, thế thôi. “Nhỏ không trong” nghĩa là cái nhỏ không thể ở trong Phật, vì Phật là cái nhỏ nhất. “Lớn cũng không ngoài” có nghĩa là cái lớn không thể ở ngoài Phật, vì Phật là cái lớn nhất. Từ cái nhỏ nhất cũng có Phật mà đến cái lớn nhất cũng có Phật, vậy thì ở trên trời và dưới đất còn có cái gì không phải là Phật nữa! Kết lại, để trả lời câu hỏi Phật là gì, chúng ta có thể theo ý thơ của Ông Hi Văn mà nêu lời giải đáp ngắn gọn: Phật không là gì cả mà là tất cả.

Ở hai câu cuối của khổ thơ, đạo Phật được Nguyễn Công Trứ gợi tả bằng hình tượng bao hàm nhiều ý nghĩa là chiếc “thuyền từ”. Nhìn theo một phương diện nào đó thì cuộc đời là một bể khổ mênh mông. Ở đó, con người trôi nổi theo sự cuốn hút của tài, sắc, danh, thực, thùy. Giữa bể khổ là cuộc đời ấy, thái tử Tất-đạt-đa thành Phật và từ đó đạo Phật xuất hiện như một chiếc thuyền của tình thương không phân biệt thân sơ, thù bạn trong nhiệm vụ cứu vớt người “chìm đắm đưa lên cõi tĩnh”. Hình tượng chiếc thuyền thể hiện yếu tính của đạo Phật, liên hệ mật thiết với một lời dạy của đức Thế Tôn: Nếu nước đại dương có một vị là vị mặn thì đạo ta cũng chỉ có một vị là vị giải thoát. Hình tượng chiếc thuyền còn nhắc nhở chúng ta đừng quên tính phương tiện của Phật pháp. Như chiếc thuyền chở khách sang sông, giáo pháp của đức Phật dẫn dắt con người xa rời bờ mê để trở về bến giác. Cố chấp tín điều, nô lệ kinh sách là lấy phương tiện làm cứu cánh, như một người đã qua sông rồi mà còn đội chiếc thuyền trên đầu để tiếp tục cuộc hành trình.

Ở khổ thơ tiếp theo, nho sĩ Nguyễn Công Trứ chỉ rõ chữ “tính” là điểm tương đồng giữa Phật giáo và Nho giáo, phê phán nho sĩ Hàn Dũ đời Đường đã có quan điểm hẹp hòi thiển cận khi “đổ tiếng” Phật pháp là “hư vô” rồi chủ trương tiêu diệt Phật giáo bằng cách đốt kinh, bắt tăng ni hoàn tục, lấy chùa làm nhà cho dân ở. Trong các khổ thơ còn lại, tác giả  khẳng định đạo Phật  thuận “thiên lý” hợp “nhân tâm”, đã chung sống hòa bình với đạo Nho và đã trở thành đạo sống hàng ngày của những người dân Việt.

Vào đầu thế kỷ XXI này, đời sống vật chất và tinh thần của con người đã có những bước tiến song hành với những phát minh của khoa học và kỹ thuật. Nhưng cũng ở vào thời điểm ấy, chứng kiến cảnh người tàn bạo giết hại cỏ cây và cầm thú vì quá tham lam, người man rợ hủy diệt người vì quá sân hận, những ai còn có lương tri đều thấy rõ hơn bao giờ hết cái viễn tượng ngày mai không mấy sáng sủa của loài người đã trở về với chánh pháp vô ngã vị tha mà đức Thế Tôn đã chứng ngộ, với niềm tin sẽ tìm thấy ở đó cái phao cứu sinh cho nhân loại. Mồng tám tháng chạp năm nay, ở trong nước cũng như ở nước ngoài, Phật tử chúng ta thành kính cử hành lễ Thành đạo với niềm tin ấy.
 
Tâm Hỷ
[Tập san Pháp Luân - số 60, tr77, 2009]