Khai thác các chương trình Video Phật giáo nước ngoài

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

“Hiệu quả” là gì?

Ở thế gian, từ “hiệu quả” thường gắn liền với khái niệm lợi nhuận. Hiệu quả vẫn được hiểu là cái có được sau khi lấy kết quả đã đạt trừ đi chi phí đầu tư. “Hiệu” trong hiệu quả là một bài toán trừ.

 

 Như vậy, đặt khái niệm hiệu quả vào hoạt động hoằng pháp liệu có thích hợp? Kết quả hoằng pháp không phải là thứ có thể cân, đo, đong, đếm. Ở đây hoàn toàn không thể hiểu hiệu quả như cách hiểu thông thường ngoài đời.

Nhưng “Phàm làm việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả”. Đối với những hoạt động theo hướng tích cực, người ta thường dùng từ “kết quả”. Kết quả sẽ được coi là lớn hơn, tốt hơn nếu càng tiết kiệm được công sức chi phí. Ở đây, trong hoạt động hoằng pháp, chúng tôi muốn nói đến khía cạnh này: hiệu quả là tiết kiệm công, tiết kiệm của mà kết quả vẫn vậy, lại càng lớn hơn nữa.

Tại sao hiệu quả?

Cách đây khoảng hơn 30 năm, một phim trường truyền hình cỡ trung bình và còn khá đơn giản như phim trường của Đài truyền hình Sài Gòn (trước 1975) được coi là tài sản quốc gia. Một Studio sản xuất chương trình truyền hình cỡ nhỏ như  Đài truyền hình Đắc Lộ, 171 Yên Đỗ, Sài Gòn được dòng Tên Thiên Chúa giáo đầu tư, có chi phí được ước tính đến hàng triệu USD. Lúc đó, phía Phật giáo có muốn đầu tư một đài truyền hình phục vụ hoạt động hoằng pháp như phía tôn giáo bạn đã làm là điều “không mơ thấy nổi”.

Thế nhưng, đến nay chi phí thiết bị kỹ thuật truyền hình đã giảm có đến hàng trăm lần. Để có được một trung tâm sản xuất chương trình truyền hình như Đài truyền hình Đắc Lộ (ngày trước làm chương trình bằng đen trắng, nay là bằng màu) nay chỉ phải đầu tư một số tiền có giá trị khoảng một chiếc xe hơi, có thể chỉ hơn 10.000 USD.

Vào những năm xây dựng Đài truyền hình Đắc Lộ, chi phí đào tạo một nhân viên kỹ thuật truyền hình là hàng chục ngàn USD. Một phần đáng kể nhân viên phải đưa đi đào tạo ở nước ngoài, số còn lại phải nhờ chuyên gia nước ngoài sang huấn luyện.

Nay, để nắm vững kỹ thuật quay hình, chỉ cần theo một khóa huấn luyện mà học phí chỉ khoảng 100 USD, và có thể ghi tên học ở nhiều nơi: các đài truyền hình, hãng phim, trung tâm nghiên cứu ứng dụng… Chi phí đào tạo này cũng đã giảm hàng trăm lần!

Giá một ấn bản ghi hình, ngày trước là phim nhựa, là video tape, nay là video cassette hay đĩa VCD hoặc DVD, cũng đã giảm có đến gần… cả ngàn lần. Trước năm 1975, tại dinh Độc Lập, Tổng thống cũng chỉ xem chủ yếu là phim nhựa (vì video tape chưa thông dụng và quá đắt tiền). Để sở hữu một bộ phim nhựa, tất nhiên, phải tốn vài ngàn USD là chuyện bình thường. Cả miền Nam ngày đó có lẽ chỉ có vài ba gia đình có thiết bị nghe nhìn như gia đình Tổng thống. Còn nay, một chương trình video ghi trên đĩa VCD được xe đẩy bán rong có giá “niêm yết” là…5000 đồng, tức chưa tới 1/3 USD. Một đĩa DVD giá bán rong là 10.000 đồng, nhưng chứa thời lượng chương trình gấp 3-4 lần đĩa VCD.

Đến đây, đã có thể bước đầu giải đáp câu hỏi “tại sao hiệu quả?” bằng một bài toán so sánh. Trong khi chi phí đầu tư thiết bị sản xuất chương trình ghi hình giảm hàng trăm lần, chi phí ấn bản ghi hình giảm hàng ngàn lần, thì chi phí in một quyển sách hầu như vẫn không thay đổi trong hơn 50 năm qua (nếu tính giá trị bằng USD).

Hiệu quả là ở chỗ này và cơ hội cũng chính là ở chỗ này.

Nếu như 30 năm trước, đặt vấn đề Phật giáo cần có một cơ sở sản xuất chương trình truyền hình như Đài truyền hình Đắc Lộ thì có thể ý tưởng đó được coi là… một câu nói đùa (!). Nhưng ngày nay, khi tín hiệu các buổi truyền hình của Giáo hội Phật giáo Phật Quang Sơn, và không chỉ của Phật Quang Sơn, hàng ngày truyền đi khắp thế giới bằng vệ tinh địa tĩnh, thì đặt lại vấn đề như trên đối với Phật giáo Việt Nam có thể nói là đã muộn.

Sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã mang đến cho Phật giáo một phương tiện hết sức hữu ích (tiến bộ khoa học công nghệ không chỉ được nhìn nhận ở khía cạnh sáng tạo những phương tiện có nhiều chức năng hơn, có chất lượng tốt hơn, mà còn ở chi phí khai thác thấp hơn, dễ sử dụng hơn và phổ biến hơn). Nếu chúng ta không khai thác hoặc chậm khai thác, cơ hội sẽ không chờ chúng ta.

Hiện nay, trên kệ trưng bày ở phòng phát hành kinh sách của các chùa, đã có một góc trưng bày các chương trình video Phật giáo. Nhưng tỷ lệ diện tích thường rất nhỏ, chỉ khoảng 1/10 so với diện tích sách báo (ấn bản giấy). Đã có nhiều báo, tạp chí Phật giáo định kỳ, nhưng vẫn chưa có được ấn bản video Phật giáo định kỳ. Số chương trình video Phật giáo mà tất cả các chùa Việt Nam sản xuất trong một năm cộng lại, có thể không bằng số chương trình mà Đài truyền hình Phật Quang Sơn (BLTV) phát sóng trong vài ba ngày. Phật giáo Việt Nam chúng ta đã chậm với cơ hội, nếu nhìn từ những người có trách nhiệm hoằng pháp.

Trách nhiệm trước thời cơ

Vấn đề trách nhiệm càng phải được đặt ra ở đây khi khảo sát lãnh vực truyền hình từ phía đầu thu. Nếu cách đây khoảng 20 năm, TV màu là một tài sản thể hiện sự giàu có, thì đến nay có thể nói, hầu như không có gia đình Việt Nam nào mà không có TV. Có thể có nhiều gia đình, mà những thành viên, vì sinh kế mà không có thời gian đọc sách, đọc báo, nhưng TV trong mỗi gia đình thì chắc chắn phải hoạt động ít nhất vài giờ/ngày, không dùng để xem đài thì cũng xem băng, dĩa. Đó là điều rất dễ nhất trí mà không cần viện dẫn những thống kê phức tạp. Hiệu quả cũng là ở chỗ này. Hiện nay, truyền hình rõ ràng là có tác động đến đời sống tinh thần mạnh hơn sách báo. Nó phổ thông hơn sách báo, rẻ tiền hơn sách báo, dễ dàng tiếp thụ hơn so với sách báo. Nếu không đưa được những chương trình video Phật giáo lên màn ảnh nhỏ mỗi gia đình (trước mắt là bằng phương tiện băng, dĩa) thì về lâu dài, tổn thất đối với sự nghiệp hoằng pháp là không thể bù đắp nổi. Chúng ta sẽ đánh mất những kết quả mà Phật giáo các nước bạn đang có. Các vị Tăng sĩ Đài Loan đang dùng truyền hình để “Tịnh độ hóa” đời sống tinh thần công chúng, và đã bước đầu đạt kết quả. Trong khi đó, tại Việt Nam, truyền hình vẫn được xem là một loại đường ống để những cặn bã của cuộc đời chảy ngược vào nhà chùa (trong Pháp luân số 31, có một câu chuyện rất đáng suy nghĩ, là việc chiếc TV bị đập trong chuyện “Ôi Tivi, sinh mi làm chi” vì các điệu dùng TV xem phim “ngoài luồng”).

Đặt vấn đề hiệu quả, chúng tôi không chỉ nói đến chuyện được mất, hơn kém, mà còn nhấn mạnh đến việc phải tạo ra một “hiệu thế”. Tức là, phải làm sao dòng chảy video chảy từ nhà chùa vào cuộc sống, chứ không phải chảy từ thế tục vào nhà chùa. Việc không ý thức được hiệu quả của truyền hình đối với hoạt động hoằng pháp đã tạo ra một hiệu thế văn hóa tiêu cực, kết quả là chiếc TV trong chùa phải bị đập vì dòng chảy ngược đó và các điệu than vãn: “Ôi Tivi, sinh mi làm chi?”.

Câu trả lời của tương lai phải là TV “sinh ra” để chiếu các chương trình thuyết pháp, hành lễ, Phật nhạc, v.v... Và trong các chùa, điểm phát hành kinh sách sẽ được bổ sung để thành điểm phát hành kinh sách và video Phật giáo, tạo thành một dòng chảy văn hóa tích cực đúng hướng. Như vậy, vấn đề còn lại là trách nhiệm của những người làm công tác hoằng pháp.

• MINH THẠNH

[Tập San Pháp Luân.34.Tr,60.2006]



Vì sao cần khai thác các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài? 

Hiện nay, việc khai thác các chương trình truyền hình nước ngoài chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động truyền hình trong nước. Website của một trong số những đài truyền hình lớn nhất Việt Nam cho biết, các chương trình nước ngoài chiếm tỷ lệ gần 50% các chương trình phát sóng. Sở dĩ có tỷ lệ như vậy là vì:

- Rất nhiều chương trình truyền hình nước ngoài là những chương trình giá trị, rất có lợi khi phổ biến đến khán giả trong nước, đặc biệt là các chương trình văn hóa, nghệ thuật, khoa học giáo dục.

- Việc khai thác các chương trình truyền hình nước ngoài tiết kiệm hơn rất nhiều so với việc tự thực hiện chương trình truyền hình, và công việc chính chỉ gói gọn ở việc phiên dịch, lồng tiếng hay thuyết minh.

- Nguồn chương trình nước ngoài rất phong phú, sẵn có từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó một tỷ lệ lớn có thể khai thác tự do. Thí dụ như từ các kênh truyền hình công ích nước ngoài phát qua vệ tinh.

Đối với Phật giáo, những điều được ghi nhận ở trên có thể là một gợi ý tốt cho việc khai thác công nghệ truyền hình phục vụ hoạt động hoằng pháp. Để có được nhiều chương trình truyền hình, khai thác các chương trình truyền hình nước ngoài là một hướng tất yếu, đương nhiên. TP.HCM là nơi đi đầu trong hoạt động phổ biến các chương trình truyền hình Phật giáo, với những bước đi tích cực theo hướng này bằng việc dịch, thuyết minh một số phim có chủ đề Phật giáo của Singapore, Đài Loan rồi phổ biến dưới dạng đĩa VCD. Một số đầu băng đĩa video thuyết pháp thực hiện tại Đài Loan, Singapore cũng đã được phiên dịch lưu hành trong Phật tử Việt Nam.

Trong bối cảnh các chương trình video Phật giáo thực hiện trong nước còn giới hạn, đặc biệt là các chương trình nghệ thuật đòi hỏi kinh phí cao như phim truyện, sân khấu, v.v… thì việc đẩy mạnh khai thác các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài là điều hết sức cần thiết và đem lại nhiều lợi ích thiết thực. Cũng như việc khai thác các chương trình truyền hình nước ngoài của các đài truyền hình trong nước, việc khai thác các chương trình Phật giáo nước ngoài sẽ giúp phổ biến đến khán giả những chương trình chọn lọc có giá trị, giúp khán giả trong nước có điều kiện thưởng thức được những chương trình nghệ thuật Phật giáo giá trị từ nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, làm phong phú số lượng chương trình truyền hình Phật giáo, trong khi chỉ phải đầu tư một khoản chi phí thấp để phiên dịch, thuyết minh hay lồng tiếng.

Có thể hiểu việc khai thác các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài sẽ có lợi ích như việc phổ biến các ấn phẩm Phật học dịch thuật. Nếu những cuốn sách Phật học dịch thuật đã không thể thiếu trong tủ sách của các chùa cũng như gia đình Phật tử, thì trên màn ảnh TV của các gia đình theo đạo Phật cũng không thể thiếu các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài, bên cạnh các chương trình trong nước hiện vẫn còn khá ít ỏi.

 

Có thể khai thác các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài từ các nguồn nào?

 

- Băng đĩa hình là nguồn chương trình quan trọng. Gần như hầu hết các chương trình băng đĩa hình Phật giáo, trong đó phần lớn các chương trình thuyết pháp, phim truyện, phim hoạt họa, đều là các chương trình được các nhà sản xuất (mà phần lớn là từ các chùa, các tổ chức Phật giáo, hội đoàn Phật học…) khuyến khích phổ biến, lưu hành (tức là không có yêu cầu sở hữu bản quyền). Do đó việc tổ chức sưu tầm, phiên dịch, lồng tiếng hoặc thuyết minh, xuất bản tại Việt Nam những chương trình từ băng đĩa hình là điều hết sức dễ dàng và sẽ giúp bổ sung ngay nhiều chương trình truyền hình Phật giáo cho khán giả Phật tử Việt Nam.

- Các chương trình phát qua các kênh truyền hình Phật giáo của Đài Loan, Thái Lan, các chương trình truyền hình Phật giáo phát trên các kênh truyền hình của các quốc gia Phật giáo, cũng như các chương trình truyền hình mang màu sắc  Phật giáo phát trên các kênh truyền hình từ khắp thế giới, là kho chương trình truyền hình Phật giáo vô tận. Với hệ thống anten vệ tinh, hoặc qua truyền hình cáp, khán giả trong nước vẫn có thể xem được một số nhất định những chương trình như vậy. Tuy nhiên, khán giả sẽ vấp phải một rào cản lớn là vấn đề ngôn ngữ. Nếu những chương trình như vậy được ghi hình, phiên dịch (lồng tiếng hay thuyết minh) và xuất bản dưới dạng băng đĩa để phổ biến rộng rãi đến Tăng, Ni, Phật tử, thì chắc chắn khán giả Phật tử sẽ chào đón nồng nhiệt. Những chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài sẽ giúp Tăng, Ni, Phật tử Việt Nam nghe thuyết pháp từ các cao tăng khắp các nước trên thế giới, thăm viếng qua màn ảnh nhỏ các cảnh chùa từ Ấn Độ, Miến Điện sang Nhật Bản, Hàn Quốc và cả các nước Châu Âu, Bắc Mỹ, được xem các bộ phim xây dựng trên nền tảng Phật giáo do các nước thực hiện, nghe đọc tụng kinh điển bằng nhiều phong cách từ các quốc gia, các vùng lãnh thổ khác nhau... Chi phí khai thác là tối thiểu, chỉ cần một bộ anten vệ tinh và một đầu thu video, chúng ta sẽ có bản ghi hình chương trình trên băng hoặc trên đĩa cứng. Việc dịch thuật tất nhiên là không mấy khó khăn đối với Tăng Ni sinh được đào tạo từ các trường Phật học. Những chương trình truyền hình như vậy đều là những chương trình lành mạnh, đạo đức, cho nên việc xin phép xuất bản để phổ biến theo luật định cũng sẽ là điều dễ dàng.

- Các đài truyền hình Phật giáo đều có kho lưu trữ chương trình truyền hình sản xuất qua nhiều năm. Trong đó, chắc chắn có nhiều chương trình truyền hình giá trị. Vấn đề làm sao sưu tập, khai thác các chương trình giá trị để phổ biến đến khán giả Phật tử trong nước là điều mà những vị hoạt động trong lãnh vực hoằng pháp cần chú ý. Chắc chắn trong đó không hiếm những phim truyền bá giáo dục, tư tưởng Phật giáo, mà nếu đến được với khán giả Việt Nam, hiển nhiên sẽ đem lại lợi ích cho cộng đồng nhiều hàng trăm lần so với những phim giải trí tầm thường, vô bổ; thậm chí có thể kích động bạo lực, bản năng đang xâm chiếm màn ảnh nhỏ của các gia đình.

- Các chương trình video hiện nay cũng có thể truyền tải dễ dàng qua internet. Đây là một kênh truyền thông mới và tiện dụng. Việc khai thác các chương trình video truyền tải từ internet sẽ mở một con đường mới cho việc phát triển chương trình truyền hình phục vụ khán giả. Nếu việc xem trực tuyến trên internet đòi hỏi thiết bị tin học khá phức tạp, đắt tiền, trình độ tin học và ngoại ngữ của người sử dụng, thì việc xem các chương trình như vậy đã được phiên dịch phổ biến bằng dĩa hay băng chỉ đòi hỏi ở người xem những thiết bị tối thiểu và hết sức phổ biến (TV, đầu đọc dĩa VCD hiện nay hầu như nhà nào cũng có và ai cũng sử dụng được).

Tựu trung lại, khai thác chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài chỉ còn là vấn đề phiên dịch. Những vấn đề khác như truyền dẫn, tiếp nhận, in sao chương trình truyền hình, v.v… khoa học công nghệ hiện đại giải quyết được hầu như tất cả. Chỉ còn trở ngại cuối cùng là ngôn ngữ và nỗ lực của những người tâm huyết với sự nghiệp hoằng pháp. Xin một lần nữa trích dẫn lời tổng kết Hội thảo quốc tế “Phật giáo trong thời đại mới: cơ hội và thách thức”: “Thành tựu công nghệ hiện đại không chỉ thu hẹp khoảng cách giữa các lãnh thổ, tạo mối tương giao giữa các nền văn hóa văn minh trên thế giới, tạo nhiều cơ hội học hỏi hiểu biết trao đổi những tinh hoa đặc thù giữa các liên quốc gia, tôn giáo với nhau, mà còn giúp cho Phật giáo phát huy rõ tiềm năng ảnh hưởng của mình cả bề rộng lẫn bề sâu”. Tổ chức đẩy mạnh khai thác các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài rõ ràng là một cơ hội giao lưu văn hóa Phật giáo toàn thế giới, phát huy tiềm năng ảnh hưởng của Phật giáo.

 

Có thể khai thác được những chương trình gì?

 

Những chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài có thể khai thác là:

- Phim truyện Phật giáo nhiều tập và phim lẻ.

- Du khảo Phật tích, danh lam trên khắp thế giới.

- Thuyết pháp.

- Vấn đáp Phật học. 

- Tin Phật sự thế giới. 

- Hướng dẫn nấu các món ăn chay.

- Đọc tụng kinh điển kèm hình ảnh.

- Spot video chống sát sinh, chống phá hoại môi trường, chống tội ác tính dục… trên cơ sở quan điểm 5 giới nhân thừa Phật giáo. 

- Lễ hội Phật giáo khắp thế giới.

- Chương trình nghệ thuật Phật giáo…

Đây là những thể loại chương trình thường xuyên có trên sóng các đài truyền hình Phật giáo.

■ Minh Thạnh

[Tập San Pháp Luân.33.Tr,54.2006]