Cách đây hơn một năm, nhân dịp vào Sài Gòn, tôi nhờ một người thân chở tôi đi Biên Hòa để thăm Hoài Khanh (dù sanh ra và lớn lên sau 1975 nhưng lại rất say mê thơ Hoài Khanh, thầy NM).
Trong tập thơ mới nhất được in ở Hoa Kỳ, Hương sắc mong manh (2006), thì ta thấy niềm hy vọng đó lại càng mãnh liệt hơn nữa:
Hiểu ngầm sen nở đầm xa
Là nhân gian hỡi Thích Ca đã về
Người về đánh thức cơn mê
Ác gian, thù hận tràn trề khổ đau
Người về với ánh nhiệm mầu
Mấy ngàn năm đã qua cầu tử sinh
Đạo vàng ôi sắc hiển linh
Muôn đời vẫn vọng câu kinh độ trì
Muôn đời ánh đạo từ bi
Sẽ xua quỷ dữ, sân si, bạo tàn
Sẽ đem trả lại nhân gian
Cuộc sinh tồn ngát hoa vàng từ tâm.
(Điềm triệu của sắc vàng)
Thì ra, sự đau khổ của thi nhân không phải vì từ chối hay ghét bỏ cuộc đời mà vì quá yêu thương cuộc đời nhưng đã bị cuộc đời từ chối tấm lòng ấy một cách phũ phàng. Bởi vậy, nhà thơ của chúng ta không còn cách nào hơn là:
Van người xin hãy thương nhau
Mai kia đất vẫn dâng màu lưu ly.
Và vẫn kiên trì hy vọng một ngày nào đó con người sẽ không còn hận thù và tình thương sẽ đơm bông kết trái:
Rằng thiên niên kỷ mai sau
Máu người ắt sẽ là màu từ tâm.
(Bản tự khúc LEONORA)
Nhưng tất cả những nỗi đau khổ trên đều là nỗi khổ đến từ bên ngoài.
Có một nỗi khổ mà đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng không chỉ được Hoài Khanh thể hiện trong một, hai hay ba bài thơ mà gần như trong toàn thể sự nghiệp thi ca của ông. Đó chính là nỗi khổ về thời gian:
Nước xuôi lạnh một dòng sầu
Biết về đâu hỡi mấy màu thời gian?
Biết bao lần rồi thi nhân đã:
Lang thang trong vạn hồn chiều
Nghe mùa gãy đổ dưới nhiều bến sông.
Bởi thế cho nên, ta chẳng lấy gì làm lạ khi thi nhân gần như mang một niềm “thù hận” đối với những buổi chiều:
Tay tôi bóp những chiều tà
Với cồn phố cũ với ga ven rừng.
Nhưng tại sao ông lại “thù hận” những buổi chiều đến như vậy?
Hỡi em người của ta yêu
Phấn son đâu khỏi bóng chiều vây quanh.
Không “thù hận” sao được trong khi cứ:
Một lần quay mặt về chiều
Thì tìm sao nổi mỹ miều dấu xưa
Làm sao đợi làm sao chờ
Làm sao còn mãi những giờ yêu em?
Nỗi đau về thời gian đó ta thường thấy Hoài Khanh lấy dòng sông ra để gửi gắm tâm sự. Thực ra, không phải đợi đến Hoài Khanh mà cách đây hơn 10 thế kỷ Lý Bạch khi đứng nhìn sông Hoàng Hà cũng đã thở than:
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy
Thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.
Quân bất kiến cao đường minh kính
Bi bạch phát
Triêu như thanh ty mộ tuyết.
Người thấy chăng! Nước sông Hoàng Hà
từ trên trời xuống, một đi ra biển thì không
bao giờ trở lại.
Người thấy chăng! Nhà cao gương sáng
nhưng quá buồn vì mái tóc đã bạc trắng cả rồi.
Hay như Appollinaire nhà thơ của nước Pháp đứng trên cầu Mirabeau nhìn sông Sein mà xót xa cho những mối tình trôi qua cầu đi theo dòng nước mà không bao giờ trở lại.
Nhưng Lý Bạch cũng như Appolliniare chỉ có một bài nhắc đến dòng sông thôi. Với Hoài Khanh thì gần như từ Dâng rừng đến Lục bát hay Gió bấc, Trẻ nhỏ, Đóa hồng và Dế đến Thân phận đều có những con sông buồn thảm chảy qua.
Chính vì thế, khi muốn chọn một bài tiêu biểu nhất về những dòng sông trong thơ ông, thì thật là khó vì gần như bài nào đọc vào ta cũng đều thấy không phải chỉ là nỗi buồn của riêng ông mà có lẽ còn là nỗi buồn “chết người” của mỗi người trong chúng ta nữa.
Tuy vậy, có lẽ ngoài bài Ngồi lại bên cầu trong Thân phận, mà cách đây gần bốn thập niên những người yêu thơ không ai là không biết đến nhất là bốn câu cuối:
Rồi em lại ra đi như đã đến
Dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu.
Thì bài Trông theo cũng trong Thân phận cũng làm xúc động không biết bao nhiêu người:
Bến sông này, bến sông này
Trăng xưa lạnh xuống hàng cây gục đầu
Người xưa chừ biết là đâu
Này trăng gió cũ này câu giã từ
Lối đi vàng nhạt mùa thu
Nghe lau lách động niềm u uất buồn
Mắt người mang cả quê hương
Lòng ta mang cả đoạn trường tháng năm.
Nhưng cũng chính trong Thân phận, tập thơ có nhiều con sông buồn bã nhất chảy qua thì Hoài Khanh lại viết:
Con sông nào đã xa nguồn
Thì con sông ấy sẽ buồn với tôi.
Như vậy, nếu như thi nhân lên đường tìm lại được nguồn cội của những dòng sông ấy thì thi nhân có còn mang nỗi sầu vạn cổ ấy không?
Trong Hương sắc mong manh, thi phẩm mới nhất của Hoài Khanh có bài nhan đề là Sám hối tâm kinh như sau:
Nhớ câu “vô sở tùng lai
Diệc vô sở khứ”trần ai nhãn tiền
Con từ xa cõi Phan Duyên
Nếm mùi nghiệp chướng lụy phiền não nhân
Tham sân như cát sông Hằng
Đắm mê bóng sắc quên thân phận mình
Một hôm sực nhớ câu kinh
“Không phải chỗ trụ mà sinh tâm mình”
Nhân ngày Phật tổ đản sinh
Con xin dâng tấm lòng thành ăn năn.
Nếu Hoài Khanh đã nhận ra “không phải chỗ trụ mà sanh tâm mình” trong kinh Kim cang thì tất nhiên ông cũng phải nhận ra một điều tối quan trọng nữa mà đức Phật đã thuyết giảng trong kinh đó:
“Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.”
(Quá khứ không thể nắm bắt được thì hiện tại và vị lai cũng đều như vậy).
Nếu đã biết thời gian là cái không thể nắm bắt được, thì tại sao ta phải đau khổ nhỉ?
Kinh Kim cang phát xuất từ Ấn Độ, Ấn Độ có con sông Hằng mà sử gia Will Durant nói là “cứ rộng dần đến thánh địa Ba-la-nại mỗi ngày tẩy uế cho mười triệu tín đồ, những chi nhánh của nó làm cho xứ Bengale và miền chung quanh Calcutta hóa phì nhiêu. Tiến về phía Đông thì xứ Miến Điện với những chùa dát vàng ở Rangoon và con đường Mandalay chói chang ánh nắng”.
Trong một bài thơ Hoài Khanh đã nhắc đến dòng sông này:
Từ nơi ẩn dụ sông Hằng
Có trong tinh thể bội phần chiêm bao
Có trong tinh thể gầy hao
Là cơn trùng phục mai sau vĩnh tồn
Niềm vô hữu của linh hồn
Là niềm thao thức chập chờn lắt lay
Chính từ cõi thế gian này
Con người bỗng chốc đặt bày hư không.
Bài thơ có tên là Cõi tuần dưỡng, mà Hoài Khanh đã làm để tưởng nhớ ngày Bùi Giáng qua đời.
Ta cũng cần nhắc lại ở đây, Bùi Giáng là một trong hai ba người đã dịch và chú giải Heidegger nhiều nhất tại Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua.
Tại sao một thi sĩ lang thang suốt đời như Bùi Giáng lại bận tâm nhiều đến Heidegger như vậy?
Trong bản dịch tác phẩm Buông xả thanh thản (Gelassenheit) của Heidegger, trong phần phụ lục Hoài Khanh cho người đọc biết lý do tại sao?
“Cũng nên lặp lại ở đây là tất cả tư tưởng của Heidegger chính yếu đều nằm trong cuốn Tính thể và thời tính (Sein und Zeit), xuất bản lần đầu vào năm 1927, mà có người cho rằng tác phẩm triết học ấy đã trở thành “một loại thánh kinh có hệ thống”. Tác phẩm này nhằm đặt lại vấn đề Tính thể hay Hữu thể đã từng thống ngự tư tưởng triết lý Tây phương suốt hai nghìn năm qua trong một trận đại chiêm bao là Quên lãng tính thể. Do đó mà Heidegger đã ‘kiệt tận miên bạc bình sinh’ (chữ của Bùi Giáng) để trả lại cho Tính Thể (Sein) vai trò xứng đáng của nó hầu cứu vãn những gì đã mất mát. Sứ mạng của ông là ‘lặp lại’ vấn đề Tính thể:
Một sự hồi phục trong ý nghĩa làm lại triệt để, lần dò qua bao nhiêu ngõ ngách khác nhau để tìm lại cái quá khứ bị quên lãng ấy từng đối đầu với các tư tưởng gia Hy Lạp đầu tiên thuở bình minh của triết học Tây phương”.
Đó là lý do vì sao Hoài Khanh viết tưởng niệm Bùi Giáng lại có hai câu:
Chính từ cõi thế gian này
Con người bỗng chốc đặt bày hư không.
Chính vì đặt bày hư không mà Tây phương thường gọi là chủ nghĩa hư vô (Nihilism), nên con người đã tự lưu đày chính mình ra khỏi mái nhà xưa chăng?
Người ta nói rằng vào những năm cuối đời Heidegger đã lui trở về rặng núi Đen (Forêtnoire) sống trong một túp lều tranh, trên chiếc bàn ọp ẹp chỉ có vỏn vẹn toàn thể tác phẩm Holderlin.
Heidegger làm gì trong túp lều tranh ở rặng núi Đen đó?
Hoài Khanh cho ta biết trong một bài thơ có tên là Forêt noire:
Về đây người lặng lẽ ngồi
Để nghe tính thể lên lời nguyên ngôn
Để nghe cay đắng linh hồn
Lời xưa trót lạc bên cồn trăng phai
Người xưa chừng luống u hoài
Cội nguồn tư tưởng lạc loài về đâu?
Và tất nhiên còn gánh lên đôi vai gầy yếu của mình nỗi khổ xa quê của con người hôm nay nữa:
Từ khi tư tưởng lộn đàng
Con người chừng cũng ngỡ ngàng… Quê Xưa?
Nhưng ta có quyền tin rằng, ông chỉ thất vọng chứ chưa tuyệt vọng, vẫn hy vọng một cách mãnh liệt rằng, từ trong mê lộ con người sẽ phải tự tìm lại được con đường trở về của mình:
Rồi con người cũng mở lòng
Đón nguyên sơ lại trong vòng tay ôm
Phương Nam lại trỗi ngọn nồm
Cõi tuần dưỡng lại mở vòm vô biên.
Dường như càng về già thì Hoài Khanh càng sống trọn vẹn hơn với cái “Vòm vô biên” ấy, cái “trong tinh thể bội phần chiêm bao” ấy. Đặc biệt là “từ nơi ẩn dụ sông Hằng”, dòng sông mà khi còn tại thế ít nhất một lần đức Phật đã dừng chân lại:
“Rồi đức Thế Tôn đi đến con sông Hằng. Lúc bấy giờ, sông Hằng tràn ngập nước đến bờ, đến nỗi con quạ cũng có thể uống được. Có người đang đi tìm thuyền, có người đang đi tìm phao, có người cột bè để qua bờ bên kia. Đức Thế Tôn mau lẹ như người lực sĩ duỗi cánh tay được co lại hay co cánh tay được duỗi ra, biến mất từ bờ bên này và hiện ra trên bờ bên kia với chúng Tỳ-kheo.
Đức Thế Tôn thấy những người kia, người đang tìm thuyền, người đang tìm phao, người đang cột bè để qua bờ bên kia. Đức Thế Tôn hiểu được ý nghĩa của cảnh này, lúc ấy bèn ứng khẩu cảm khái:
“Những ai làm cầu vượt biển trùng dương, bỏ lại đất sủng đầm ao, trong khi người phàm phu cột bè, những người ấy thật là những vị được giải thoát bởi trí tuệ.”
Đọc đoạn kinh trên tôi nhớ đến bài Dấu chân Từ Phụ của Hoài Khanh:
Cái gì hễ mất là còn
Hễ không là có hễ tròn là lăn
Ngày xưa có một dấu chân
Bước qua bãi cát sông Hằng nhẹ tênh.
Hôm đến Biên Hòa thăm Hoài Khanh, khi ngồi nói chuyện trong phòng khách, nhìn lên vách tôi thấy ông có treo hình của đức Phật, xa hơn chút nữa là hình của Martin Heidegger. Tôi nhìn hai tấm hình và tự nghĩ rằng, chắc bây giờ ông không còn buồn vì những “dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù” nữa đâu!
Vì chẳng phải ông đã tìm lại được cội nguồn của một dòng sông rồi đó hay sao?
Thích Phước An
[Tập san Pháp Luân - số 54, tr.58 2008]
Mặc dù đã đọc thơ và quen biết từ những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, nhưng tôi chưa có dịp nào đến Biên Hòa để thăm ông, dù những câu thơ của ông nói đến đất Biên Hòa thì tôi đã đọc từ lâu lắm rồi:
Tôi về vun xới vườn hoa
Cho em là gái Biên Hòa, Hàm Tân
Cho tôi là kẻ cô thần
Nằm đây gởi mộng dậy ngàn sương xanh. (Lục bát)
Khi xe chở tôi đi qua cầu sông Đồng Nai trước khi rẽ vào nhà Hoài Khanh, tôi cứ thắc mắc không biết có phải cây cầu này, dòng sông này, mà Hoài Khanh thuở rất còn trẻ đã viết trong tập thơ Dâng Rừng (1957), có hai câu:
Qua sông là một nhịp cầu
Qua tôi là một kiếp sầu vô chung
hay không?
Hai câu đã khiến cho Bùi Giáng phải kinh ngạc mà thốt lên rằng: “Anh chưa quá 20 tuổi, anh làm những vần thơ mà Nguyễn Du, Nguyễn Khắc Hiếu tái sinh nghe được phải lạnh mình trước cái vĩ đại hồn nhiên lẫm liệt của tài hoa chưa ráo máu đầu. Cái vẻ ngây thơ thăm thẳm của lời thơ, chỉ những thiên tài xuất chúng mới có được” (1).
Theo tôi đó chỉ là một cách nói tuyệt đối của Bùi Giáng đối với cõi thơ của Hoài Khanh chứ không phải Bùi Giáng có ý đặt sự nghiệp thi ca của Hoài Khanh đứng ngang hàng cùng với các bậc tiền bối trên. Nhưng tôi cho rằng, có một sự đồng cảm lạ lùng giữa cõi thơ của Nguyễn Du, người của hậu bán thế kỷ 18 và Hoài Khanh, người của hậu bán thế kỷ 20, nghĩa là cách nhau đúng hai thế kỷ.
Sự đồng cảm này được thể hiện qua bài thơ Nhớ Nguyễn Du, được Hoài Khanh làm để đăng trong tạp chí Tư Tưởng, cơ quan luận thuyết của Viện Đại học Vạn Hạnh, số đặc biệt có chủ đề là Nguyễn Du với Phật giáo. Cũng cần nhắc lại là tạp chí này quy tụ hầu hết những nhà văn nhà thơ cùng những nhà biên khảo danh tiếng nhất của miền Nam trước 1975 được Phạm Công Thiện và sau đó là Tuệ Sĩ đứng ra điều hành.
Trong số ấy, tôi còn nhớ có hai bài thơ viết để tưởng niệm Nguyễn Du được truyền tụng nhiều nhất là bài của Bùi Giáng và của Hoài Khanh. Nếu bài của Bùi Giáng với hai câu kết:
Gửi trời một giọt mù sương
Trao về cho đất vô thường cảo thơm
Đã nói lên hết tất cả sự hoằng đại của thông điệp mà Nguyễn Du đã muốn gửi đến cho “mặt đất trầm trọng và đau thương” này, thì bài của Hoài Khanh mới là bài nói lên hết tất cả nội dung của thông điệp ấy của Nguyễn Du.
Bài ấy sau được Hoài Khanh cho in lại trong tập Lục bát (1968), thi phẩm thứ ba của ông như thế này:
Cõi nào giọng khởi nguyên vang?
Nhánh khô trời muộn trôi tan mộng thầm
Súng còn vọng mãi trời căm
Rưng rưng mắt lệ nghìn tâm sự nào?
Mộng đời nát ngọc chìm châu
Bến mê vẫn rợn mấy màu trầm luân
Mười lăm năm bấy nhiêu lần
Bấy nhiêu rồi nhỉ hỡi trần gian kia?
Ngược xuôi bao kẻ đi về
Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
Chuyện đời có có không không
Phù vân một áng bụi hồng xa xa
Cớ sao thiên hạ người ta
Vẫn chưa tròn một Quê-Nhà-Bao-Dung?
Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng
Trong cơn trường-mộng-vô-cùng-thời-gian
Như vậy là, kể từ Nguyễn Du kêu lên một cách thống thiết ở cuối thế kỷ 18:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Thì với Hoài Khanh tiếng kêu la thống thiết và hãi hùng đó của Nguyễn Du cho đến hậu bán thế kỷ 20 vẫn còn tiếp tục:
Súng còn vọng mãi trời căm
Rưng rưng mắt lệ nghìn tâm sự nào
Và cũng chính trong bài thơ này thi nhân đã phải nhắc nhở lại rằng, rốt cuộc thì chúng ta, những con người đang sống trên mặt đất này chẳng là gì cả mà chỉ là một sinh vật bé nhỏ tội nghiệp đã đến và dừng lại chỉ trong một khoảnh khoắc rồi lại tiếp tục cuộc hành trình mịt mù trong không gian vô cùng và thời gian vô tận của vũ trụ mênh mông này:
Ngược xuôi bao kẻ đi về
Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
Chuyện đời có có không không
Phù vân một áng bụi hồng xa xa.
Thế nhưng, trong khoảnh khắc dừng lại ấy, con người không lúc nào được yên thân, vẫn luôn luôn là nạn nhân cho những Sở Khanh, những Mã Giám Sinh, những Khuyển, Ưng, Tú Bà, v.v... tức là những cái tên tượng trưng cho biết bao điều xấu ác đã đang và sẽ tiếp tục hiện diện khắp nơi, chúng đeo nhiều mặt nạ, kể cả mặt nạ “thần thánh” để tiếp tục xô đẩy con người vào chỗ tối tăm hãi hùng.
Bởi thế cho nên, thi nhân cho rằng 15 năm đọa đày tủi nhục của Thúy Kiều chưa chấm dứt và 15 năm ấy vẫn cứ tiếp tục lặp đi lặp lại mãi đối với thân phận của mỗi người trên mặt đất này:
Mười lăm năm bấy nhiêu lần
Bấy nhiêu rồi nhỉ hỡi trần gian kia?
Và nhiều lần thi nhân cũng đã thốt lên trong nỗi tuyệt vọng:
Cớ sao thiên hạ người ta
Vẫn chưa tròn một quê nhà bao dung
Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng
Trong cơn trường mộng vô cùng thời gian.
Dù lúc ấy (hậu bán thế kỷ 18), Nguyễn Du chỉ chứng kiến nỗi điêu linh thống khổ của đất nước mình thôi và chắc chắn vẫn chưa biết gì đến thảm trạng của thế giới như chúng ta đang biết ngày nay nhờ sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin. Thế nhưng với “tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”, thi hào của chúng ta đã nhận ra rằng không có nơi nào trên mặt đất này là không có điêu linh thống khổ cả:
Đại địa xứ xứ giai Mịch La
(Trên mặt đất này đâu đâu cùng là dòng sông Mịch La)
Và nếu như lúc sinh tiền Nguyễn Du cứ bâng khuâng tự hỏi trong cô độc:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Thì thi hào của chúng ta không cần phải đợi đến 300 năm mà chỉ 200 thôi cũng đã có nhiều người nhỏ lệ khi đọc thơ ông, và không chỉ nhỏ lệ thôi mà còn tiếp tục con đường mà ông đã để lại bằng cách nói lên hết tất cả nỗi điêu linh thống khổ mà con người phải gánh chịu trên mặt đất đau thương này.
Hoài Khanh tất nhiên là một trong số những người đó.
Gần như trong toàn thể thi phẩm của ông đều tràn ngập sự đau khổ, nhưng không phải đau khổ vì hận thù mà đau khổ vì tình thương đối với con người, như trong một câu thơ ông đã tự khẳng định:
Vai mang xiềng xích vẫn thương bạo tàn
Trước tiên, ông nói đến quê hương mà quê hương thì gần như lúc nào cũng chìm ngập trong khói lửa chiến tranh:
Quê hương tôi ở chốn nào
Phải chăng Châu Á buồn đau ngút ngàn
Mẹ hiền sớm chít khăn tang
Màu hương khói lạnh đồng hoang, chiến trường
Thế hệ của Hoài Khanh không phải chỉ chứng kiến có một cuộc chiến tranh mà cả hai cuộc chiến tranh. Hết chiến tranh chống Pháp xâm lược thì tiếp đến phải chứng kiến cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai miền Nam Bắc:
Chiến tranh rồi chiến tranh
Dải đất nghèo nàn này quê hương tôi
Mỏi mòn tháng ngày qua
Những buổi chiều xám
Những đêm tóc tang
Tiếng súng vọng từng hồi uất nghẹn
Bởi vậy, trong một lúc đau khổ và quá tuyệt vọng, Hoài Khanh gần như hoài nghi luôn cả cái mà xưa nay vẫn thường được ca tụng là “giá trị của con người”
Con ơi!
Làm sao mày lại phải sinh ra
Có phải để lớn lên vục đầu
Trong niềm kiêu hãnh là người?
Có lẽ với hầu hết chúng ta, dường như lúc nào chúng ta cũng muốn lẩn tránh sự đau khổ, để an tâm mà tiếp tục hưởng một chút hạnh phúc mà ta đang có được trong tay dù chúng ta vẫn thừa biết rằng những thứ hạnh phúc ấy vốn rất mong manh.
Nhưng những nghệ sĩ chân chính thì ngược lại, dù họ có là tín đồ của đạo Phật hay không thì theo tôi, họ vẫn là những kẻ thể hiện đúng nhất tinh thần mà đức Phật đã cảnh giác chúng ta trong kinh Pháp hoa:
Tam giới bất an do như hỏa trạch
(Ba cõi không yên, in như nhà lửa)
Hoài Khanh trong bài thơ có tên là Về Nguồn theo tôi, đã thể hiện trọn vẹn tinh thần ấy của Pháp hoa kinh.
Bài thơ ấy bắt đầu bằng một cuộc hành trình được tác giả tưởng tượng như thế này:
Nếu em đã cùng tôi trưa hôm đó
Chuyến xe Sài Gòn - Phú Nhuận ra đi
Tôi sẽ đưa em về miền cát bỏng
Cỡi lạc đà đi suốt cõi Châu Phi
Nơi ấy, dù mỗi ngày mặt trời vẫn mọc nhưng vẫn không xóa tan nổi màu đen giá buốt mà con người ở đó phải gánh chịu:
Ôi Phi Châu! Kiếp người đầy tủi nhục
Tự bao đời ai dựng cõi điêu linh
Sương không trắng giữa màu đen giá buốt
Mặt trời bừng chưa sáng nẻo quang linh
Muốn đi, nhưng biết đi về đâu? Vì nơi nào trên mặt đất này mà chẳng phải là sông Mịch La? Là Châu Phi?
Trưa hôm đó em đã cùng tôi chuyến buýt
Mang niềm đau tôi tới tận phương nào
Em có nhớ mỗi lần xe tách bến
Bóng một người ngơ ngác đó về đâu?
Nhưng rồi cũng giống như một kẻ tử tội cuối cùng hắn cũng bị lôi trở về lại cái nơi chốn mà hắn đã chạy trốn ấy:
Hắn đã về giữa dòng sông nước chảy
Của Á Châu nhược tiểu khổ đau này
Hắn đã về giữa cát bừng sa mạc
Của Phi Châu quằn quại suốt trời mây
Nhưng nếu chúng ta cứ lăn vào những nơi đau khổ, đối mặt với đau khổ, thì nỗi đau khổ mênh mông của kiếp người liệu có chấm dứt được không? Nếu không thì chúng ta lăn vào để làm gì?
Để em biết nỗi buồn xa đất tổ
Thương linh hồn bộ lạc thuở lang thang
Và thương mình một tình yêu bé nhỏ
Có nghĩa gì giữa đau khổ mơ hoang?
Đó phải chăng là lời giải đáp gián tiếp của tác giả bài thơ Về Nguồn?
Trong kinh Pháp cú, đức Phật cũng đã từng nhắc nhở chúng ta:
Làm sao mà ta có thể vui được
Có thể đắm chìm trong lạc thú được?
Những ngọn lửa đốt cháy thiên thu
Bóng tối đang vây phủ
Ta không muốn tìm ánh sáng sao?
Và chúng ta cũng đừng quên rằng, tất cả những con người được ca tụng là xuất chúng, là vĩ nhân đều là những con người đã đứng lên từ trong đau khổ, nghĩa là họ dám từ bỏ những lạc thú tầm thường, những niềm vui nhỏ nhen ích kỷ, để rồi cuối cùng họ mới vượt lên chính họ được.
Trong thi ca của Hoài Khanh ta thấy ông còn phải mang nỗi thống khổ mà tác giả Đoạn trường tân thanh ở hậu bán thế kỷ 18 chưa phải gánh chịu.
Trong bài Sầu Thế Kỷ, Hoài Khanh viết lên nỗi đau khổ đó:
Vào đời một trái tim côi
Bao phen rách nát giọng cười hỗn mang
Ai đâu một tấm lòng vàng
Hai mươi thế kỷ điêu tàn rồi chăng?
Người ta đang thoát căn phần
Văn minh cơ khí giết dần yêu thương
Nhưng khi đối mặt với thế giới lạnh lùng và vô cảm ấy, Hoài Khanh không như Bùi Giáng đã bị bắt buộc phải nói lên lời phản kháng mạnh mẽ:
Ầm cơ giới hận
Thân tù chung thân
Mà ông chỉ nói lên nỗi bàng hoàng sửng sốt của mình:
Ôi! Con người của thế kỷ 20
Chiếc hộp, cây đinh, con ốc, ngọn đèn
Rồi sẽ bị bóp-đóng-vặn-bật-lên.
Nhưng đứng trước những nỗi khổ lớn lao do con người gây ra đó, thái độ của thi nhân như thế nào?
Ông có bất mãn quay lưng lại với sự tàn nhẫn của con người như thế này không?
Nhân loại! Tôi không chơi với các anh nữa
Ván bài nào anh cũng ăn gian. (Trần Dần)
Chắc chắn là không, vì ta biết được rằng Hoài Khanh vốn rất say mê tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ (The sound and the furry) của William Faulkner, đặc biệt là nhân vật Caddy mà Hoài Khanh cứ nhắc đi nhắc lại hoài trong bài thơ có tên là Bài Tụng Từ:
Vườn xưa chừ cũng hoang tàn
Người xưa chừ cũng phụ phàng với xưa
Caddy em hiểu gì chưa?
Thiên tài khổ lụy, hoa thừa rụng rơi
Ôi nhan sắc ấy rợn người
Dẫu lầm cát bụi muôn đời vẫn ngân
Caddy sao em trắng ngần?
Sao em thổn thức như vầng trăng phai
Sao em có mùi lá cây
Sao ta sống trải những ngày điêu linh
(Hương sắc mong manh)
Nếu Caddy, một nhân vật trong tác phẩm của Faulkner dù sống trong đọa đày tủi nhục nhưng lúc nào cũng thoang thoảng thơm mùi lá cây, hay bà vú nuôi Dilsey dù làm việc quần quật suốt ngày nhưng lúc nào cũng nghe bên tai lời cầu kinh từ những ngôi giáo đường vọng về, thì Hoài Khanh cũng thế, dù “vai mang thế kỷ buồn đau” nhưng lúc nào cũng nghe tiếng vọng bên tai:
Một phương đã hiện Từ Bi
Lửa bình tịnh đốt sân si hận cuồng. (Lục bát)
(1). Giảng luận về Chu Mạnh Trinh, NXB Tân Việt, Sài Gòn 1959
Thích Phước An (còn nữa)
[Tập san Pháp Luân - số 53, tr.58, 2008]