Trang 2 / 3
2. Tháp Đại Giác, tòa Kim Cang và các điểm thiêng liêng của Bồ-đề Đạo tràngTháp Đại Giác
Nếu cây Bồ-đề là biểu tượng cao quí của ánh sáng tuệ giác, của sự chứng đắc giác ngộ; thì tháp Đại Giác (Mahabodhi Temple) chính là biểu tượng của Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng, là biểu tượng thiêng liêng của trung tâm tuệ giác trong Phật giáo. Đến với Bồ-đề Đạo tràng, hình ảnh đầu tiên mà chúng ta thấy được chính là hình ảnh vĩ đại và oai hùng của tháp Đại Giác. Đây là một công trình kiến trúc nổi bậc nhất của Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng; nó không những có giá trị về kiến trúc, văn hóa, điêu khắc nổi tiếng của nhân loại, mà còn có giá trị thiêng liêng về mặt tâm linh của một tôn giáo lớn trên thế giới.
Tháp Đại Giác (Mahabodhi Temple) là một trong những công trình kiến trúc rất lớn, cao khoảng 52 mét (170 feet), có bốn góc vuông vức, với chiều dài mỗi bề 15 mét, gồm chín tầng và nhọn dần lên tận đỉnh theo hình kim tự tháp.
Trên nền tháp Đại Giác có bốn tháp nhỏ ở bốn góc và trên các vách tường của tháp Đại Giác được chạm khắc với những hình ảnh của chư Phật, Bồ-tát và các vị thiên thần theo truyền thống của Phật giáo Đại thừa. Theo các sử liệu về Bồ-đề Đạo tràng, các bia kí của các vị vua Ấn Độ và những ghi chép của các nhà khảo cổ… Đặc biệt là những phát hiện của nhà khảo cổ học nổi tiếng người Anh, Alexander Cunningham, những sử liệu này cho biết rằng tháp Đại Giác trải qua nhiều biến thiên thăng trầm cùng năm tháng. Hình ảnh đầu tiên của tháp Đại Giác là do Đại đế ASoka (A-dục vương) xây dựng vào khoảng giữa thế kỉ thứ III BC, nhiều thế kỉ trôi qua, ngôi tháp này đã bị đổ nát và bảo tháp Đại Giác hùng vĩ mà chúng ta thấy ngày nay được xây trên nền tháp cũ của ngôi tháp Asoka, và xây dựng vào khoảng thế kỉ thứ II AD. Trước thế kỉ thứ VII AD trở về trước, bảo tháp này được gọi là tháp Đại Định. Thế kỉ thứ VII trở về sau, lúc ngài Huyền Trang chiêm bái Thánh tích này thì bảo tháp được mang tên là tháp Đại Giác (Mahabodhi Temple).
Gần 1000 năm trôi qua kể từ lúc xây dựng, bảo tháp bị xuống cấp rất nhiều, thế kỉ thứ XI và XII, cộng đồng Phật tử Miến Điện đến chiêm bái Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng đã phát tâm trùng tu lại bảo tháp. Hơn năm trăm năm tiếp theo, năm 1875 vua Mindan Min của Miến Điện và Phật tử nước này phát tâm trùng tu. Từ cuối thế kỉ XIX đến nay, Tăng, Ni và cộng đồng Phật tử trên thế giới tiếp tục ủng hộ trùng tu ngôi bảo tháp để được trang nghiêm và hoàn mỹ như ngày nay. Do vậy có thể nói rằng, tháp Đại Giác là một sự tổng hợp và tiếp nối của các kiến trúc và văn hóa nghệ thuật từ ngàn xưa cho đến bây giờ.
Truyền thống Phật giáo có đề cập đến bốn loại tháp trong Phật giáo: Loại tháp thứ nhất tên là Savivika, loại tháp này được xây trên những xá-lợi của chư Phật, xá-lợi của các vị Đại đệ tử của đức Phật, các vị Thánh và các bậc thầy trong Phật giáo. Loại tháp thứ hai tên là Paribhogika, loại này được xây trên các vật đã được dùng bởi chư Phật, như bình bát khất thực, áo Ca-sa… Loại thứ ba tên là Uddesika, loại tháp này được xây dựng để tưởng niệm tại các vị trí thiêng liêng mà chư Phật đã hiện diện, như nơi Ngài Đản sanh, nơi Ngài Chuyển pháp luân… Tháp Đại Giác thuộc về loại tháp Uddesika này.
Tòa Kim Cang
Trải qua sáu năm ép xác khổ hạnh, nhưng ánh sáng giác ngộ vẫn không tìm thấy được, ngược lại thân thể ngày càng kiệt quệ và tinh thần cũng thêm u tối, Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy lối tu này sai lầm và không phải là đạo lộ đưa đến giác ngộ. Ngài đã từ bỏ lối sống cực đoan này và thọ thực trở lại. Sau khi thọ nhận bát cháo sữa của nàng Tu-xà-đa và tắm gội mọi cấu bẩn ở dòng sông Ni-liên-thiền, Bồ-tát Tất-đạt-đa đi đến dưới cội cây Bồ-đề ngồi kiết già và phát lời nguyện siêu việt: “Nếu ta không thành Chánh quả thì dầu thịt ta có nát, xương ta có mục, máu ta có khô… ta quyết không rời khỏi chỗ này”. Trải qua bốn mươi chín ngày đêm nhập định, tu tập và quán chiếu mọi sự tương sanh tương duyên của kiếp sống con người, chúng sanh và hoàn vũ… Bồ-tát Tất-đạt-đa đã chứng đắc chân lý tối thượng, giác ngộ thành Phật. Nơi Ngài ngồi dưới cội cây Bồ-đề ấy hiện nay là Bảo tòa Kim Cang. Bảo tòa này nằm giữa cây Bồ-đề và bức tường phía Tây của tháp Đại Giác. Nhà khảo cổ học Cunningham trong khi khai quật và sửa chữa nền tháp Đại Giác đã phát hiện ra bảo tòa này, đó là một khối đá lớn màu xám và nhẵn bóng. Bảo tòa mà ta thấy ngày nay là một bảo tòa bằng đồng, mạ vàng chiều dài khoảng 2,28 mét (7 feet 6 inches), chiều rộng khoảng 1,2 mét (4 feet 3 inches) và cao khoảng 0,9 mét (3 feet).
Trong các kinh điển Phật giáo, đức Phật dạy rằng chính tại nơi bảo tòa này không chỉ mình đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành đạo Vô thượng Chánh đẳng giác mà chư Phật trong quá khứ cũng ngồi thiền định tu tập, chứng đắc Phật quả và trong tương lai đức Phật Di-lặc cũng sẽ thành Phật tại nơi bảo tòa Kim Cang này. Điều ấy cho chúng ta biết rằng, nơi đây là trung tâm phát sinh mọi năng lực giác ngộ, cũng như ánh sáng tuệ giác của ba đời chư Phật đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sanh.
Các điểm thiêng liêng của Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng
Sau khi chứng ngộ Vô thượng Bồ-đề tại tòa Kim Cang dưới cội cây Bồ-đề, đức Phật đã trải qua bảy tuần lễ yên tịnh tại Thánh địa này để thể nghiệm và thọ hưởng pháp lạc của Phật quả; bảy tuần lễ ấy được tưởng niệm qua những vị trí thiêng liêng xung quanh tháp Đại Giác và cây Bồ-đề. Địa điểm thiêng đầu tiên được tưởng niệm bằng ngôi tháp Animeslochana mà chúng ta thấy ngày nay. Nhiều học giả cho rằng tháp này được xây để tưởng niệm nơi đức Phật đã đứng trong tuần lễ đầu tiên, Ngài nghiền ngẫm giáo lý duyên khởi tính vô ngã một cách thấu triệt theo chiều thuận nghịch. Sang tuần thứ hai đức Phật dành tất cả thời gian để nhìn cây Bồ-đề với tất cả lòng tri ân, vì cây đã che mưa nắng, gió sương… trong suốt thời gian Ngài tu tập. Cũng có thuyết cho rằng tháp này được xây để tưởng niệm nơi đức Phật đã thuyết kinh Hoa Nghiêm cho các bậc Bồ-tát trong ba tuần lễ đầu tiên “Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt”.
Theo lịch sử đức Phật thì tuần lễ thứ ba đức Phật đang ở dưới cây Bồ-đề, một số chư thiên nghi ngờ không biết Ngài đã chứng đắc Phật quả chưa, đọc được tư tưởng này của chư thiên, đức Phật đã dùng thần lực tạo ra một “Đường kinh hành quí báu” (Ratana Camkamana) và Ngài đã đi thiền hành trên con đường quí báu ấy.
Tuần lễ thứ tư, đức Phật tư duy về Giáo pháp vi diệu (Abhidharma), lúc ấy toàn thân Ngài rất thanh tịnh và tỏa ra một vầng hào quang sáu màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, cam và một màu hòa lẫn của năm màu ấy. Nơi này được tưởng niệm bằng một ngôi đền nhỏ không mái tên là Ratnagraha.
Tuần lễ thứ năm, đức Phật ngồi dưới cội cây Ajapala để hưởng thọ an lạc nội tâm của Phật quả.
Tuần lễ thứ sáu đức Phật thọ hưởng pháp lạc dưới cội cây Mucalinda, trong tuần lễ này trời bỗng mưa to, gió rất lớn và sấm chớp vang dội, lúc ấy mãng xà vương Mucalinda xuất hiện dùng thân mình quấn bảy vòng xung quanh thân của đức Phật và dùng đầu làm thành chiếc lọng để che mưa, gió cho Ngài. Nơi ấy ngày nay được tưởng niệm bằng một hồ nước rộng lớn và xinh đẹp, giữa hồ là tượng đức Phật ngồi kiết già có hình mãng xà vương quấn bảy vòng quanh bảo tọa và vươn cao đầu làm lọng che trên đầu của tượng Phật, hồ này được gọi tên là hồ Rồng Mucalinda.
Tuần lễ cuối cùng đức Phật thọ hưởng sự an lạc của nội tâm dưới cội cây Rajayatana; ngày nay cây này và cây Ajapala ở tuần lễ thứ năm cũng như đường kinh hành báu ở tuần lễ thứ 3 không xác định được vị trí để tưởng niệm.
Bên cạnh những vị trí thiêng liêng ấy, Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng còn có bốn trụ đá của đại đế Asoka, ba trụ nhỏ đứng trước cổng của tháp Đại Giác và một trụ lớn đứng gần hồ Rồng Mucalinda. Ngoài ra còn có rất nhiều ngôi tháp nhỏ với nhiều dạng kiến trúc, chạm khắc và những vật liệu xây dựng cũng rất đa dạng và phong phú. Những ngôi tháp nhỏ này được xây dựng bởi lòng kính ngưỡng và tưởng niệm chí thành của các vị vua, quan và những nhà chiêm bái. Tất cả những công trình kiến trúc ấy và cây Bồ-đề tạo thành Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng vừa thiêng liêng cổ kính, vừa hùng vĩ và thanh tịnh.
Bồ-đề Đạo tràng cũng từng bước thăng trầm theo dòng thịnh suy của Phật giáo Ấn Độ. Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng đã trải qua nhiều thế kỉ đóng vai trò là một Thánh địa thiêng liêng nhất của Phật giáo; có lúc là trung tâm tu tập hưng thịnh nhất, có khi bị tàn phá một cách điêu linh để rồi chìm vào quên lãng. Thế kỉ thứ XII, dưới sự xâm lược của Hồi giáo cực đoan, Thánh tích này bị tàn phá một cách nghiêm trọng, Tăng, Ni, Phật tử cũng bị sát hại một cách dã man… từ đó trở đi Phật giáo gần như biến mất khỏi quốc gia này và Bồ-đề Đạo tràng gần như bị bỏ quên trong dĩ vãng đến nỗi không người viếng thăm và chăm sóc. Do vậy, thời gian ấy Bồ-đề Đạo tràng bị người Ấn giáo chiếm lấy, và năm 1590 người Ấn giáo đã xây một ngôi đền Hindu ngay trong khuôn viên của Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng và sau đó họ chiếm lấy khu vực này làm của riêng họ.
Cuối thế kỉ XIX, học giả người Anh, ông Edwin Arnold, tác giả của cuốn sách nổi tiếng thế giới: Ánh Sáng Phương Đông (The Light of Asia), cũng phải đau lòng khi viếng thăm Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng và ông đã bày tỏ điều này trên tạp chí Daily Telegraph phát hành ở Anh quốc: “Quả thật, Phật giáo thế giới hầu như đã quên đi Thánh địa này và chỉ biết đến những trung tâm tín ngưỡng như Mecca, Jerusalem của những tôn giáo phương Đông. Khi tôi lưu lại Bồ-đề Đạo tràng cách đây mấy năm, tôi thật sự đau lòng khi thấy hàng ngàn di sản cổ quí giá, hàng ngàn tảng đá có khắc chữ Sanskrit nằm ngổn ngang chồng đống quanh đây”.
Trong giai đoạn này Bồ-đề Đạo tràng đã được chư Tăng Ni, cộng đồng Phật tử trên thế giới quan tâm và quyết tâm đòi lại Thánh tích này cho Phật giáo. Dưới sự đóng góp và vận động của chư Tăng, Phật tử, giới báo chí và các nhà khảo cổ như: Cunningham, R.L Mitra, Beglar, vua Mindan của Miến Điện... đặc biệt là sự nỗ lực của Ngài Dharmapala, Ngài đã lập ra “Hội Đại Giác Ngộ” (The Buddha Gaya Mahabodhi Society) vào năm 1891. Cuộc tranh đấu, vận động đòi trao trả lại Thánh tích thiêng liêng này kéo dài mãi đến năm 1952, chính phủ Ấn Độ mới đồng ý thành lập một Ban Quản trị để điều hành, chăm sóc và bảo quản Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng, Ban Quản trị này gồm có 8 người: bốn người là Phật tử và bốn người là Ấn giáo.
Năm 1956, lễ kỉ niệm Phật Đản lần thứ 2500 (Buddha Jayanti) được tổ chức trên tầm vóc của thế giới. Từ ấy đến nay, Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng được phát triển nhanh chóng và đã trở thành một trong những Thánh tích thiêng liêng và hưng thịnh nhất của Phật giáo. Ngày nay, cộng đồng của Tăng, Ni, Phật tử các nước liên tục qui tụ về nơi Thánh tích thiêng liêng này để tổ chức những lễ hội đặc trưng truyền thống Phật giáo của nước mình, đặc biệt là nước Tây Tạng dưới sự chủ trì của đức Đạt-lai Lạt-ma, nước Srilanka, Myanmar, Nhật Bản, v.v…
Ngày nay Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng đã phát triển trở thành một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất thế giới. Hàng năm, Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng mở lòng đón nhận hàng nghìn Hòa thượng, Tăng Ni, hàng vạn du khách và hàng triệu người con Phật trở về viếng thăm, chiêm bái và đảnh lễ Thánh địa thiêng liêng này.Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng đã được hồi sinh lại thời vàng son của Phật giáo.
(còn nữa)
[Tập San Pháp Luân.35.Tr,17.2006]
Về lại cội Bồ-đề
Typography
- Smaller Small Medium Big Bigger
- Default Helvetica Segoe Georgia Times
- Reading Mode