Tìm hiểu nguyên nhân phân phái đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Sử liệu Phật giáo lưu lại nhiều thông tin khác nhau về nguyên nhân và thời gian phân phái đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Lần phân phái đầu tiên giữa Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda) đã xảy ra, hoặc trong cùng năm đức Thế Tôn niết-bàn, hoặc trong những năm: 100, 116, 137 và 160 năm sau năm đức Thế Tôn niết-bàn, hoặc vào năm 236 sau năm đức Thế Tôn niết-bàn.

Các nhà Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā) của Hữu bộ, trong A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa, cũng đồng ý rằng, “Năm việc” này là do Đại Thiên (Mahādeva) khởi xướng và là nguyên nhân phân phái đầu tiên này. Các nhà Tỳ-bà-sa còn đi xa hơn, viết thêm tiểu sử của Đại Thiên; theo đó, trước khi xuất gia, Đại Thiên phạm ba trọng tội ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán. Tuy nhiên, các luận sư này thừa nhận, sau khi xuất gia theo Phật, Đại Thiên là người thông minh, học nhiều hiểu rộng, được nhiều người kính trọng, kể cả vua quan và hàng quý tộc. Các luận sư, các nhà dịch thuật và chú giải Trung Hoa, như: Chân Đế, Cát Tạng, Huyền Trang, Khuy Cơ cũng chấp nhận quan điểm của các Luận sư Hữu bộ về nguyên nhân phân giáo đầu tiên này. Tuy nhiên, ngài Khuy Cơ cho rằng, Đại Thiên chỉ là nạn nhân bị tấn công từ các luận sư đối lập. Theo Ngài, Đại Thiên là một người thông tuệ, đạo cao đức trọng. Mặc dù tuổi còn trẻ, nhưng ngài đã chứng đạt quả vị tâm linh rất cao, được vua quan kính trọng, đồng đạo quý mến. Đó là lý do tại sao Đại Thiên bị quy gán ba tội ngũ nghịch, khi ngài đề xướng “Năm việc” liên quan đến phẩm chất A-la-hán.

Sử liệu liên quan của Chánh lượng bộ (Saṃmatīya) được ngài Thanh Biện (Bhavya hoặc Bhāvaviveka) ghi lại trong tác phẩm Tarkajvālā (Mdo XIX, tr. 162b 6-163; cf. Mdo XC, No. 12) vào thế kỷ thứ VI. Sau đó, những thông tin này được các sử gia Tây Tạng, Bu ston, thế kỷ XIV, Gzon nu dpal, thế kỷ thứ XV và Tāranātha, thế kỷ thứ XVII trích dẫn và thuật lại trong các tác phẩm lịch sử Phật giáo Ấn Độ của họ. Tuy nhiên, ngài Thanh Biện cung cấp hai nguồn thông tin khác nhau liên quan đến lần phân phái lớn này. Theo nguồn sử liệu thứ nhất, 136 năm sau năm đức Thế Tôn niết-bàn, trong thời kỳ vua Nanda và Mahāpadma, một Đại hội Tăng đoàn được nhóm họp để thảo luận về “Năm việc” liên quan đến tính chất A-la-hán, được khởi xướng bởi Tỳ-kheo tên Bhadra (Tăng sĩ nổi tiếng). Do nguyên nhân này, Tăng đoàn bị phân rẽ. Và theo nguồn sử liệu thứ hai, 160 năm sau năm đức Thế Tôn, trong lúc vua A-dục (Asoka) đang cai trị tại thành Hoa Thị (Pātaliputra), Tăng đoàn đã khởi lên tranh luận về một số giáo nghĩa và dẫn đến phân rẽ thành hai bộ: Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ.

Như vậy, tuy những nguồn sử liệu của Hữu bộ (Sarvāstivāda) và Chánh lượng bộ (Saṃmatīya) thuật lại thời gian ly giáo có khác nhau, hoặc năm 137 (sau Phật niết-bàn: SNB) trong thời kỳ vua Nanda và Mahāpadma, hoặc năm 116 và 160 (SNB), trong thời kỳ vua A-dục (Aśoka); nhưng cả hai nguồn sử liệu này đều đồng ý nguyên nhân dẫn đến Tăng đoàn rạn nứt và phân rẽ thành hai bộ: Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ là do bất đồng “Năm việc” liên quan đến tính chất của Thánh giả A-la-hán.

Như chúng ta biết, khi đức Thế Tôn còn tại thế, đã có hai lần cộng đồng Tỳ-kheo bị phân ly: một, do Đề-bà-Đạt-da lãnh đạo, và một, do bất đồng quan điểm về một điều giới của hai vị Trưởng lão Tỳ-kheo tại Kosambi. Tuy hai lần phân giáo này, sau đó, đều được đức Thế Tôn bằng nhiều phương cách khác nhau đã tái lập hòa hợp, nhưng cả hai lần phân ly này có một đặc tính giống nhau là đều được dẫn dắt hoặc lãnh đạo bởi những Tỳ-kheo có ảnh hưởng lớn trong cộng đồng Tỳ-kheo và quần chúng Phật tử. Lịch sử phân phái Phật giáo về sau cũng vậy. Hầu hết các lần phân phái đều được dẫn dắt hoặc lãnh đạo bởi một Tỳ-kheo hay một nhóm Tỳ-kheo có uy tín và ảnh hưởng lớn trong cộng đồng Tỳ-kheo hoặc quần chúng Phật tử. Lần phân phái giữa Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ có thể cũng vậy. Như đã đề cập ở trên, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ không phải là các Tỳ-kheo có ảnh hưởng và uy tín trong Tăng chúng và quần chúng Phật tử. Nên họ không đủ khả năng lãnh đạo 10 ngàn Tỳ-kheo, phân tách cộng đồng Tăng đoàn và thành lập Đại chúng bộ. Chỉ có những Tỳ-kheo như Đại Thiên hoặc các nhóm Tỳ-kheo, những Tỳ-kheo đa văn, được Tăng chúng quý mến, có uy tín trong xã hội (như được tường thuật trong các nguồn sử liệu Sanskrit và Trung Hoa), mới có thể lãnh đạo các nhóm Tỳ-kheo ủng hộ quan điểm của họ và thành lập bộ phái mới: Đại chúng bộ.

Bất đồng quan điểm về giáo nghĩa, mà ở đây cụ thể là phẩm chất của A-la-hán, là những bất đồng và sau này là mâu thuẫn, nghiêm trọng nhất giữa Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ trong suốt dòng lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Các nhà Đại chúng bộ có quan điểm rằng thánh quả A-la-hán chưa phải là quả vị viên mãn, chỉ có Phật quả mới là quả vị viên mãn. Họ ít quan tâm đến quả vị A-la-hán, mà quan tâm chính đến Phật quả. Theo các nhà Đại chúng bộ, và sau này là Đại thừa, muốn thành Phật quả, phải thực hành con đường của Bồ-tát. Cho nên, các nhà Đại chúng bộ xiển dương con đường thực hành của Bồ-tát. Con đường này khác biệt với con đường của Thanh văn A-la-hán. Ngược lại, các nhà Trưởng lão bộ xiển dương Thánh hạnh và Thánh quả của A-la-hán. Những khác biệt giữa quan điểm của Đại chúng bộ về Bồ-tát và quan điểm của Trưởng lão bộ về A-la-hán là những khác biệt xuyên suốt và chính yếu trong dòng lịch sử bộ phái Phật giáo Ấn Độ. Vì vậy, rất có thể, những bất đồng về phẩm chất của Thánh giả A-la-hán là nguyên nhân chính yếu và cuối cùng dẫn đến Tăng đoàn phân chia thành hai Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda).

Liên quan đến lần ly giáo này, giáo sư André Bareau, trong tác phẩm đối chiếu văn bản rất nổi tiếng, Các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa, cho rằng những dị biệt của Đại hội kết tập kinh điển tại thành Tỳ-xá-ly không thể là nguyên nhân làm cho Tăng đoàn phân ly. Vì nếu, tại thời điểm đó, Tăng đoàn đã phân ly thì chắc chắn các bộ luật của các Tông phái Phật giáo phải ghi lại thông tin quan trọng này. Và giáo sư Bareau chấp nhận nguyên nhân phân phái đầu tiên của Tăng đoàn Phật giáo liên quan đến “Năm việc”, mà ông cho là do Đại Thiên khởi xướng. Và cuộc ly giáo này, theo André Bareau, không thể xảy ra vào thời kỳ của vua A-dục (Asoka) như tường thuật của ngài Thế Hữu. Nếu nó xảy ra trong thời gian vua A-dục trì vị, thì các sử liệu khác xưa hơn và thuộc các nguồn gốc khác nhau tại vùng Kasmir không thể không ghi lại danh tánh đức vua đại hộ pháp này, nhưng các nguồn sử này không nhắc đến tên vua A-dục liên quan đến cuộc phân ly này. Và vua A-dục không thể là đức vua trị vì trong khoảng đầu thế kỷ thứ hai sau Phật niết-bàn. Giáo sư Bareau kết luận rằng, cuộc phân ly này diễn ra trong khoảng năm 140 sau năm đức Thế Tôn niết-bàn, tại thành Hoa Thị (Pataliputra) dưới triều đại vua Nanda và Mahāpadma do Tăng đoàn bất đồng về “Năm việc” của Đại Thiên.

Tuy nhiên, theo ngài Huyền Trang, nguyên nhân phân phái này bao gồm cả hai vấn đề tranh luận về giới luật và tranh luận giáo nghĩa trong Tăng đoàn Phật giáo. Giáo sư Paul Demiéville cũng có cùng quan điểm như ngài Huyền Trang. Theo Demiéville, trong “A Propos du Concile de Vaiśāli”, nguyên nhân phân phái đầu tiên này bao gồm những bất đồng về “Mười điều” liên quan đến giới luật và “Năm việc” liên quan đến tính chất của A-la-hán. Nhưng vì, các luật sư quan tâm đến giới luật hơn, nên họ chỉ ghi lại trong các bộ luật về Đại hội Tăng đoàn tại thành Tỳ-xá-ly (Vaiśālī) liên quan đến mười điều giới luật; và các luận sư quan tâm đến giáo nghĩa hơn, nên họ chỉ ghi lại trong các bộ luận về Đại hội Tăng đoàn tại thành Hoa Thị (Pataliputra) liên quan đến năm tính chất của Thánh giả A-la-hán. Tuy nhiên, giáo sư J. Nattier và Charles S. Prebish phê bình giả thuyết của Demiéville. Theo họ, nếu giả thuyết của Demiéville là đúng, thì giải thích như thế nào về những tường thuật trong kinh Xá-lợi-phất vấn, một luận thư A-tỳ-đàm của Đại chúng bộ, theo đó, nguyên nhân phân giáo giữa Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ liên quan đến giới luật. Và họ cho rằng, giả thuyết của Demiéville có chỗ chưa thuyết phục. Giáo sư Nalinaksha Dutt đưa ra một giả thuyết khác. Theo N. Dutt, có thể sự phân phái giữa Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ bắt đầu từ những quan điểm khác biệt về một số giới điều (Mười điều của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ) và dần dần xuất hiện thêm những khác biệt về giáo nghĩa (Năm việc liên quan đến phẩm cách của A-la-hán).

Giáo sư J. Nattier và Charles S. Prebish đưa ra một giả thuyết khác, phủ nhận những giả thuyết liên quan đến “Mười điều” cho phép của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ và “Năm việc” đề cập đến tính chất của A-la-hán. Theo hai giáo sư này, nội dung “Năm việc” này, đặc biệt là nội dung thứ 5 liên quan đến “Khổ” thánh đế của Thánh giả A-la-hán, trong thời gian đầu, không xuất hiện trong các chi phái của Đại chúng bộ phía Bắc, chỉ được tranh luận và truyền bá trong các chi phái của Đại chúng bộ tại phía Nam, quanh vùng Andhra. Vì vậy, họ phủ nhận giả thuyết cho rằng “Năm việc” là nguyên nhân phân phái chính. Theo họ, nó chỉ là nguyên nhân phân phái phụ trong các chi phái Đại chúng bộ tại phía Nam Ấn Độ, do Đại Thiên khởi xướng và truyền bá. J. Nattier và Charles S. Prebish cũng đồng ý cách đánh giá của giáo sư É. Lamotte về nguồn sử liệu đề cập đến nguyên nhân phân phái chính được tường thuật trong Đảo sử (Dīpavaṃsa). Vì vậy, hai giáo sư này phủ nhận nguyên nhân phân phái được tường thuật trong Đảo sử. Giả thuyết của J. Nattier & Charles S. Prebish dựa vào nguồn sử liệu được đề cập trong Kinh Xá-lợi-phất vấn. Kinh này được xem là một luận thư A-tỳ-đàm của Đại chúng bộ, và được học giả André Bareau đánh giá là một trong những nguồn sử liệu sớm nhất về lịch sử bộ phái Phật giáo Ấn Độ. Theo kinh này, lúc bấy giờ, có một trưởng lão Tỳ-kheo đem luật tạng được kết tập trong Đại hội do ngài Đại Ca-diếp chủ trì, phân loại lại và bổ sung thêm một số giới điều. Do nguyên nhân này, cộng đồng Tỳ-kheo Tăng khởi lên bất hòa. Họ nhờ vua nước này đứng ra phân xử đúng sai. Nhà vua và Tăng chúng quy định, những tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thống do ngài Đại Ca-diếp kết tập thì chọn thẻ màu đen, những Tỳ-kheo chấp nhận giới luật được thêm vào thì chọn thẻ màu trắng. Kết quả là số thẻ màu đen có đến 10 ngàn, còn số thẻ màu trắng chỉ có 100. Vua nước này kết luận rằng, cả hai đều tuân giữ đúng theo tinh thần giới luật của đức Thế Tôn giảng dạy, nhưng vì có một số khác biệt nên không thể sống chung. Vì vậy, cộng đồng Tỳ-kheo phân ly thành hai bộ phái. Mười ngàn Tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thống thành lập Đại chúng bộ. Số Tỳ-kheo kia thành lập Thượng tọa bộ (Trưởng lão bộ). Kinh này không đề cập tên vị vua trì vị lúc bấy giờ, nhưng giáo sư É. Lamotte nhận dạng vua này là vua A-dục (Asoka). Như vậy, theo nội dung tường thuật trong kinh này, nguyên nhân phân phái là do cộng đồng Phật giáo nguyên thủy bất đồng về việc mở rộng một số giới điều trong giới bổn và Đại chúng bộ là bộ phái giữ gìn giới bổn truyền thống do Upāli và Đại tăng kết tập tại thành Vương Xá.

Trong thực tế, so sánh các bộ luật của các bộ phái hiện còn, chúng ta thấy rằng luật Ma-ha Tăng-kỳ của Đại chúng bộ có số giới điều ít nhất: 218 giới. Cụ thể là các Pháp chúng học (Śaikṣa – dharmas) trong giới bổn Tỳ-kheo của các bộ luật. Pháp chúng học của Ma-ha Tăng-kỳ chỉ có 66 giới; trong khi luật Pāli: 75, Tứ phần luật: 100, Thập tụng: 113, Căn bản nhất thiết hữu bộ: 108. Và nhiều học giả, trong những tác phẩm nghiên cứu về giới bổn Tỳ-kheo của họ, nhận định rằng giới bổn Ma-ha Tăng-kỳ của Đại chúng bộ có niên đại sớm nhất.

Vì vậy, theo J. Nattier & Charles S. Prebish, rất có thể sau Đại hội kết tập kinh điển tại thành Tỳ-xá-ly, các cộng đồng Tỳ-kheo tại các địa phương lo sợ Tăng đoàn sẽ phân ly, nên nỗ lực điều chỉnh một số tiểu giới mà đức Thế Tôn cho phép thêm giảm cho phù hợp với từng địa phương để giữ cho Tăng đoàn không phân cực. Nhưng những nỗ lực này không như ý nguyện của họ, dần dần các cộng đồng địa phương càng thêm khác biệt nhiều về giới luật, Tăng đoàn càng thêm phân ly và cuối cùng là phân phái. Hai giáo sư này kết luận nguyên nhân tách phân Tăng đoàn Phật giáo liên quan đến việc bổ sung giới điều trong giới bổn, mà cụ thể là những giới điều thuộc Pháp chúng học và thời gian xảy ra lần phân phái này là vào năm 116 sau năm đức Thế Tôn niết-bàn.

Như trên đã trình bày, Thượng tọa bộ, theo Đảo sử, thì cho rằng bộ phái gốc của mình (Trưởng lão bộ) gồm những trưởng lão Tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thống và thanh tịnh; và ngược lại, Đại chúng bộ, theo kinh Xá-lợi-phất vấn, cũng tường thuật bộ phái mình là bộ phái gồm những số đông Tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thống và thanh tịnh. Những tường thuật này phản ánh một phần quan điểm chủ quan của bộ phái. Thật không dễ để kết luận nguyên nhân và thời gian chính xác dẫn đến phân ly giữa Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda).

Lời kết:

Đại chúng bộ là bộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ. Khảo cứu nguyên nhân phân phái giữa Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda) để có những đánh giá và nhận định khách quan và tương đối chính xác về Đại chúng bộ là việc làm rất cần thiết. Đây là đề tài lớn mà nhiều sử gia Phật giáo đã hao tốn nhiều trí lực và thời gian khảo cứu, tranh luận và đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau trong hơn một thế kỷ qua. Nhưng hiện nay vẫn chưa có một giả thuyết nào đủ sức thuyết phục để các nhà chuyên môn chấp nhận. Vì vậy, chúng ta không thể chỉ y cứ vào một nguồn sử liệu nào mà cho rằng Đại chúng bộ là bộ phái khởi nguyên từ những Tăng sĩ trẻ, lơi lỏng giới luật, hay bộ phái được lãnh đạo bởi những kẻ dị giáo xâm nhập vào trong Tăng đoàn nhằm làm suy yếu Phật giáo.

Một số quan điểm của người viết trình bày ở trên, chỉ là cách nhìn và cách hiểu của người viết căn cứ vào những sử liệu khác biệt của hai nguồn Pāli và Sanskrit về lần phân phái lớn và đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ này. Cách nhìn và cách hiểu ấy có thể hợp lý và cũng có thể không hợp lý. Khi viết bài này, người viết chỉ mang một ước nguyện, hy vọng có thể tìm lại hình ảnh chân thực của Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika).

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Luật Tứ phần, quyển 6, Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng dịch Việt, Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng hiệu đính và chú thích, đăng trên trang mạng Phật Việt.
2. Luật Ma-ha Tăng-kỳ, HT. Thích Phước Sơn dịch Việt, đăng trên trang mạng Quảng Đức.
3. Tiểu phẩm (Cullavagga), Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch Việt, đăng trên trang mạng Budsas.
4. Dị bộ tông luân luận, HT. Thích Trí Quang dịch Việt, đăng trên trang mạng Đạo Phật Ngày Nay.

Chú Thích:
1. A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa, Đại chánh, T 1545, ch. 99, tr. 510c – 512a.
2. Khuy Cơ, Du-già-sư-địa luận lược, Đại chánh, T 1829, tr. 1b.
3. É. Lamotte, “Buddhist controversy over the Five Propositions”, như trên, tr. 51-52.
4. Trong Đại Đường Tây Vực ký, ngài Huyền Trang thuật rằng, ngài có gặp những Tỳ-kheo thực hành theo giáo thuyết của Đề-bà Đạt-đa tại ba Tu viện ở Karṇasuvarna. Tuy nhiên, theo tất cả kinh luật của các truyền thống Phật giáo, một thời gian ngắn sau khi Đề-bà Đạt-đa cùng 500 Tỳ-kheo tách phân khỏi cộng đồng Tỳ-kheo được đức Thế Tôn hướng dẫn, Trưởng lão Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, vâng lời đức Thế Tôn, đã đến tu viện 500 Tỳ-kheo này đang trú ngụ và hướng dẫn họ trở về với chánh pháp. Sau đó, Đề-bà Đạt-đa vì tức giận, ngã bệnh mà qua đời. Và theo giáo sư Ed. J. Thomas, trong The life of Buddha as Legend and History, thật khó có thể, một cộng đồng Tỳ-kheo, những người theo Đề-bà Đạt-đa, tồn tại hơn 1000 năm (từ khi đức Thế Tôn còn tại thế đến lúc các nhà chiêm bái Trung Quốc đến Ấn Độ) mà tất cả các nguồn sử liệu khác toàn hoàn không đề cập đến.
5. André Bareau, Các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa, Pháp Hiền dịch, Hà Nội: Nhà xuất bản Tôn giáo, năm 2003, tr. 54-55.
6. N. Dutt, Buddhist Sects in India, Delhi: Motila Banarsidass, 1998, tr. 31.
7. J. Nattier & Charles S. Presbish, “Mahāsāṃghika Origins: the Beginning of Buddhist Sectarianism” trong Buddhism Critical Concepts in Religious Studies, Vol. II, do Paul William chủ biên, London & New York: NXB. Routledge, 2005, tr. 201.
8. Sđd, tr. 201.
9. N. Dutt, như trên, tr. 31.
10. J. Nattier & Charles S. Presbish, như trên, tr. 199-228.
11. André Bareau, như trên, tr. 26.
12. Đại Chánh, T 1465, tr. 900b 20-28; và tham khảo đoạn dịch sang tiếng Anh từ tiếng Pháp của É. Lamotte, trong History of Indian Buddhism, như trên, tr. 172.
13. Các giáo sư: Andre Bareau, W. Pachow, Hofinger, Erich Frauwallner, và Gustav Roth.

Thích Nguyên Lộc
[Tập san Pháp Luân - số 78, tr37, 2011]