Bùi Giáng trong đời tôi

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times


Viết về Bùi Giáng là một việc khó vô cùng. Vì nhận định nào về Ông cũng trở thành phiến diện, hời hợt như có người viết:

“thơ ca của ông sâu thẳm mấy từng, lớp ngôn ngữ bề mặt không sao chuyển tải hết cái tầng sâu tư tưởng bên trong. Nhưng viết về Bùi Giáng cũng dễ vô cùng vì nói thế nào cũng có lý: có kẻ bảo ông điên vì ông đã từng vào nhà thương điên thật với bệnh án “rối loạn chức năng âm thanh…”(đã từng một bận vào bệnh viện Biên Hòa rồi trở ra vẫn mộng mị khôn hàn). Có nhà văn sau năm 1975 đã xấc xược gọi ông là kẻ cuồng chữ vì ông biết khá nhiều ngôn ngữ một cách uyên thâm và viết lách lung tung trên cùng một trang giấy vừa tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Hán, v.v… lại có kẻ bảo ông đã ngộ và thậm chí còn gọi ông là Bồ-tát…

Trong bài viết này, tôi chỉ muốn viết về BÙI GIÁNG CỦA TÔI, một Bùi Giáng mà tôi đã có cơ duyên gặp gỡ đến hai lần trong đời, chừng ấy cũng đã đủ là một hạnh ngộ lớn lao lắm rồi vì có những người thậm xưng văn hào này, thi sĩ nọ, gặp một lần là thất vọng vì họ rỗng như hay hơn cả trang viết của họ!

Thế nên, hãy cho tôi được trở về, trên trang giấy này, ghi lại những dòng hồi ức về một nhà thơ, một tâm hồn thơ, rất thơ, đẹp hơn thơ, một kỷ niệm mãi mãi sống trong tôi.

Ngày ấy, một ngày mùa hạ năm 1972, tôi như thường lệ lại lang thang trên vỉa hè Công Lý (nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa), nơi tôi thường sục sạo các quyển sách “sold” và tha thẩn đọc vì không đủ tiền mua hết. Đang lui cui, đột nhiên, tôi nghe thấy tiếng một bà bán sách gắt gỏng “Thôi, đi đi ông ơi, bữa nay chưa mở hàng, làm gì có tiền mua sách của ông!” Tôi ngẩng lên và thấy một người hom hem, khó nói rằng già cũng không thể gọi là trẻ, tóc dài mà rất bụi, lại nghe ông nói: “Nè bà, có sách mới không?” Tiếp theo câu nói, ông chìa ra các quyển sách rất đẹp mà một thằng học trò nghèo như tôi thường chỉ có nước đọc trộm trong các nhà sách – toàn của nhà xuất bản An Tiêm với Lá Bối, những nhà xuất bản uy tín nhất thời bấy giờ – trong đấy tôi chú ý đến hai quyển sách mới tinh: Cõi Người Ta và Hoàng Tử Bé in giấy trắng tinh. Bà bán sách nhất định không mua dù ông cố gắng thuyết phục. Tôi nhận ra đây không phải lần đầu ông bán cho bà này. 

Tò mò, tôi hỏi: “Bác bán bao nhiêu quyển sách này?” Ông già trợn mắt: “Mày tính mua hả thằng nhỏ kia?” Ông lại bồi tiếp: “Mà mày mua làm chi?”

Tôi thành thật trả lời: “Dạ, mua đọc. Nhưng có mắc lắm không bác?” Bà bán hàng nói chen vào: “Thôi, mày mua dùm ổng đi, ổng bán cũng rẻ mà hôm nay tao chưa có tiền. Sách của ổng đó”. Tôi ngớ người. Lâu nay, đọc báo Văn, một tạp chí văn học có uy tín thời bấy giờ, tôi đã nghe bình luận đâu đó về “Cõi Người Ta”, và “Hoàng Tử Bé” với bản dịch trác tuyệt từ hai tác phẩm “Terre des Hommes” và “Le Petit Prince” do văn hào Saint Exupéry viết và Bùi Giáng dịch. Chả lẽ đây chính là Bùi Giáng? Là người mà trong lớp chúng tôi hay bàn luận về những lời giảng trong những quyển Giảng luận Văn học độc đáo về Phan Văn Trị mà đến nay có những câu tôi còn nhớ: “Cụ Phan mỉm cười, chuồn chuồn châu chấu cũng cười theo…”. Là người mà tôi đã mê những câu thơ thấm mãi vào hồn:

 “Em về mấy thế kỷ sau,
 Nhìn trăng còn có nguyên màu ấy không?
 Ta đi còn gửi đôi dòng
 Lá rơi tiếng dội ở trong sương mù…”

Còn đang tần ngần, đã nghe ông nói: “Tao bán nửa giá thôi.”

Mừng quá, tôi dốc hết tiền mua hai quyển sách ấy vì có nằm mơ cũng chẳng có ai bán giá ấy bao giờ, nhất là được mua từ chính người dịch nó và hơn thế nữa, gặp được thi sĩ Bùi Giáng, một hạnh ngộ không dễ gì có lại lần thứ hai trong đời.

Xong, tôi nghe ông nói: “Ê, sao mày không để tiền bao gái, mua sách làm gì?”

Tôi ấp úng: “Dạ, tại con thích đọc”. Tôi lại gặng hỏi cho chắc: “Bác là Bùi Giáng?”

Ông chau mày: “Mày biết thằng cha đó hả?”

Tôi lúng túng: “Dạ, không. Chẳng qua là vì thích thơ của ổng”. Tiếng của bà bán sách vọng ra: “Ổng đó mày ơi!”

Tôi mừng quá chợt nghe ông hỏi: “Mày hết tiền rồi phải không?”

Lần này tôi thực sự ấp úng: “Dạ, hết rồi!” Tôi nghĩ rằng ông thắc mắc sao chỉ mua có hai cuốn?

Ông nói tiếp: “Thôi, tao với mày đi nhậu”.

Trời đất, một thằng nhóc còn hôi sữa chưa biết một giọt café, nói gì đến rượu mà lại đi uống với một thi sĩ lừng lẫy như Bùi Giáng; chả lẽ lại từ chối một cơ hội hiếm có như vậy, nhưng đi thì nói chuyện gì bây giờ, mà biết gì mà nói? Ngổn ngang tâm sự nhưng đành phải đi vì không cưỡng nổi lần gặp gỡ bất ngờ ngoài sức tưởng tượng này.

Và tôi đã đi cùng ông vào một quán cóc, Ông gọi một xị rượu, một vài món nhậu mà đến nay tôi không còn nhớ nổi là món gì. Khề khà, ông nói: “Mày không bao gái, lấy tiền mua sách thì tao tặng cho mày một mớ nữa mà đọc”. Nói rồi, ông lôi ra trong bọc 4 quyển sách nữa, trong đó tôi mê quyển Tư tưởng hiện đại nhất, tương đối mình còn hiểu được và vì có lời tặng do chính ông ghi: “Kính tặng Ngài Văn Nga”. Ông nói: “Tao viết hoa chữ Ngài cho mày bằng Thượng đế vì những thằng mê sách đều xứng đáng là Thương đế”.

Các quyển khác đều rất ư khó đọc như Đường đi trong rừng, Lá hoa cồn, v.v... Tôi như rơi vào trong một giấc mộng không ngờ vì mọi chuyện diễn ra nhanh quá.

Viết đến đây tôi bỗng tiếc ngẩn ngơ vì những ngày lưu lạc sau năm 1975, một thằng bạn đã mượn và làm mất gần hết những quyển sách này. Có thể làm ra tiền chứ những di vật ngày xưa ấy bao giờ mà có được?

Lần sơ ngộ ấy để lại một ấn tượng khó phai trong tôi, một thời tuổi nhỏ dông dài phố thị với những kỷ niệm man mác để rồi bâng khuâng mãi những năm tháng sau này mỗi khi chợt nhớ về.

“Đời xiêu đổ nguồn xưa anh trở lại
 Giữa hư vô em giữ nhé ngần này”.

Rồi thời gian với bao biến động chính trị và chiến tranh đã làm người người quay cuồng trong cuộc biển dâu, tôi chẳng gặp lại ông hay nghe tin gì về ông từ ấy ngoài một giai thoại là ngày 30 tháng 4, 1975, ông khoác một chiếc áo lính mang quân hàm Đại tá VNCH ngồi trên một chiếc xích lô, hô to: “Đây là thời của Bùi Giáng” và bị bắt, sau đó được thả ra vì có sinh viên tham gia cách mạng nhận ra ông – ngài đại tá bất ngờ!

Và rồi, lần gặp thứ hai đã diễn ra cũng bất ngờ như lần trước.

Năm ấy, 1977, tôi đang học năm thứ ba ĐHSP. Một hôm đang học tập trung ở giảng đường Đại học Vạn Hạnh, tôi chợt nhìn thấy ông khoa tay múa chân đá vào những tấm bảng thông báo của trường. Nhận ra ông, bỗng dưng trong tôi nổi lên một thôi thúc kỳ lạ là phải gặp ông, tôi vội chạy ra ngay. Vì là Lớp phó Học tập, nên không ai hỏi tôi đi đâu. Chắc họ nghĩ tôi ngăn ông không quấy phá nữa.

Tôi gọi lớn: “Chào thầy!” Tôi không hiểu sao lúc ấy lại gọi ông như vậy. Phải chăng vì tôi nghĩ ông còn đáng bậc thầy hơn bao người khác.

Ông nhìn tôi, chắc cũng chẳng nhớ ra tôi là ai, đã có gặp bao giờ. Nhưng đột nhiên ông hỏi rất chân tình: “Mày đang học gì đó?”. “Dạ, triết học”, tôi mạnh dạn trả lời.

Ông gợi ý: “Thôi mày đi theo tao, tao dạy cho”. Phần tò mò, phần máu nghệ sĩ nổi lên mãnh liệt, tôi quên bẵng vai trò cán sự lớp của mình, nên gật đầu ngay. Tôi còn nhớ lúc ấy thầy Thích Minh Châu đã xuống dưới lầu và đang quan sát chúng tôi.

Thế là ông và tôi kéo nhau ra vỉa hè đường Lê Văn Sỹ ngồi nép vào mái hiên, lại gọi một xị rượu và hàn huyên. Lần này tôi mạnh dạn hơn ngày xưa nên tôi nói chuyện khá tâm đắc với ông. Trong ký ức phôi pha hôm nay, tôi còn nhớ hình như câu chuyện mở đề bằng những bình luận về thơ Đường, thơ Tống và cứ thế lan man từ thơ Tô Đông Pha, đến cả thơ Mao Trạch Đông…, vừa nói vừa viết thoăn thoắt chữ Hán lên mặt trong của một tờ giấy bạc thuốc lá. Ông nói rằng thơ Mao, nếu được ông sửa chữa vài từ, có thể đạp đổ cả Đường thi lẫn Tống thi vì thơ Mao lộng lẫy hào hùng trong đó sa mạc là hình ảnh và tứ thơ rực rỡ mà các triều đại trước ít thi sĩ nào tả nổi.

Câu chuyện lan man sang cả lãnh vực lịch sử từ lúc nào không biết, ông nói nhiều về quá khứ, đôi khi ông dùng những từ tục (không tiện kể ra đây) để mô tả những sai lầm của những bậc quân vương gây ra bao nhiễu nhương, oan khiên mà cả dân tộc phải gánh chịu. Mắt ông sáng rực, hoàn toàn không “điên”, không “khùng” tí nào. Ông tỉnh táo đến độ lạ thường.

“Gặp người tôi tưởng người điên
Gặp tôi tôi tưởng tôi điên như người”.

Dường như tôi chỉ còn là một cái cớ để ông bộc lộ tâm sự. Có lúc như thể ông nói cho ông nghe.

Ông lạnh lùng: 

“Ta về rũ áo đười ươi,
Trút quần phong nhụy cho người phụ ta”.

Tấm thân này là vinh, là nhục, là giang hồ đạo chích, là thích khách đầu đường, là ma vương quỷ dữ, là trinh nữ bán mình, là yêu tinh lạc lối, là bối rối thiền sư, là trầm tư đạo sĩ, là quỷ mị chán chường, là quân vương độc ác, là tan tác mộng vàng, là huy hoàng buổi sớm, là lợm mửa ban chiều, là tiêu điều rất mực, là ray rứt phận người, là đười ươi khoác áo, là lơ láo mây trời, là mộng đời phụ bạc…

Ông nói như thể chúng ta vừa suy rộng ra đất nước này sinh ra trong cái đêm đen của lịch sử, phải chịu thiên ma bách chiết những dập dồn tai họa, để rồi phải trút quần phong nhụy như Thúy Kiều nát ngọc tan hoa trước những Mã Giám Sinh, Sở Khanh thời đại. Thôi thì phải ngậm đắng mà đi, ngậm đau mà bước… cho đến ngày rũ áo đười ươi, gửi tấm thân giả tạm cho giun dế vui vầy… 

(Bài thơ viết nhân ngày Ông mất, tôi đã bắt đầu bằng 2 câu: 

Bùi huynh ơi, biệt Giáng người,
Hình hư thể huyễn cũng đười ươi thôi!).

Ông lại tiếp: 

“Em về rũ áo mù sa,
 Trút quần phong nhã cho tà huy bay”.

Dù đời có bạc bao nhiêu đi nữa, ta vẫn tôn thờ và mong đợi buổi Em về, Em là hình tượng mà ta hằng say đắm, Em là Kim Cương, là Marylin Monroe, Brigitte Bardo, hay mẫu thân Phùng Khánh hay Quán Thế Âm hay Liên Hoa kiều nữ… hay sư tử trong rừng, hay lừng khừng mọi nhỏ, nhưng em phải về để rũ áo mù sa vì em không rũ thì tà huy không bay, mà tà huy không bay đi làm sao bóng đêm ập đến, bóng đêm không đến thì làm gì có bình minh…Vui thay lẽ vô thường, rực rỡ thay thời gian vô tận…

Dòng sông đi cho nước nói ngàn ngày
Rằng biển rộng không bến bờ em ạ.

Thế nên, ông kết luận, bất cứ học thuyết nào chủ trương có một giai đoạn hay phát triển đến một thời kỳ nào đó rồi ngưng không biến đổi đều là phi thực. Mọi vật phát sinh và lớn lên trong mâu thuẫn, trong những đối kháng đêm ngày, âm dương, lửa nước, và trong lý vô thường như cùng tắc biến, biến tắc thông, như tà huy, đêm tối và bình minh, không có sự vật nào trường tồn, bất biến, phát triển đến cùng tột tất phải đổi thay như sau phi long tại thiên sẽ đến kháng long hữu hối, đảo thiên địa bỉ sẽ là địa thiên thái - ấy là lẽ Dịch. Ấy là vô thường. Chủ thuyết nào, triết lý nào dù hay đến đâu mà phủ nhận cái biện chứng ấy đều là phi thực (non-être). Vạn vật đang thay đổi trong từng sát-na. Vấn đề là thay đổi theo chiều thuận hay nghịch nhưng dù thế nào thì nó vẫn thay đổi.

Ông đắm chìm trong suy tưởng và nói hùng hồn như một nhà tư tưởng, một lý thuyết gia về chính trị, một triết gia, và vượt lên trên tất cả, như một thiền sư trầm mặc… Về biến ảo sự đời trong trùng trùng duyên khởi.

Chúng tôi uống đến xị rượu thứ ba, tôi cảm thấy hơi choáng váng vì rượu nhiều mồi ít nhưng vẫn hứng thú nghe vì quá lạ, quá kỳ thú khi một nhà thơ nói chuyện triết học, chuyện lịch sử và lại là một nhà thơ dở tỉnh dở điên.

Sau cùng, ông nói nhẹ nhàng rằng phải biết chỉ đến khi nào con người biết sống hòa thuận cùng đất trời, cùng người, cùng muôn hoa cây cỏ, cùng oan khiên dằng dặc cùng trầm luân miên trường, cùng khôn lường số phận, cùng lận đận mây ngàn, cùng điêu tàn thể phách, cùng lau lách hận thù, cùng mù u cõi tạm, cùng ảm đạm sương chiều, cùng phì nhiêu châu thổ, cùng lỗ đỗ mộng đời, cùng bời bời giăng gió, cùng… thì lúc ấy mới là:

Người về thảng hoặc mai sau,

Diệu hoa lầu các đêm nào hoa sinh.

Ông say sưa nói về cái thời sẽ đến và khẳng định đấy sẽ là thời của Phật Di Lặc tái sinh của Long Hoa hội của ngày Bồ-tát Quan Âm chợt về cứu khổ độ sinh. Lúc ấy, mắt ông sáng rực, nụ cười trẻ thơ hồn hậu. Ông miên man nói về một cái thời chưa đến hay sẽ không bao giờ đến khi trong lòng nhân loại còn quá nhiều thiên kiến hận thù, khi người ta nhân danh chủ thuyết này, tôn giáo nọ để hủy diệt lẫn nhau ra khỏi cuộc sinh tồn. Thế nên, Di Lặc là tương lai, theo lời phó dụ của đức Thích-ca, là vị Phật của mai sau, với nụ cười thường hằng trên môi, nụ cười bất sanh bất diệt như bản tính chân như của pháp giới. Nhưng cũng đang là vị Phật của hôm nay, giờ phút này trong lòng ta. Di Lặc là mùa xuân của tổ quốc sẽ lại về như những cánh hoa khai trong vô ưu, không còn hận thù. Người về mang theo ánh sáng như một đóa hoa trong đêm âm thầm nở như ánh sáng của ngọn đuốc trí huệ xua tan tham sân ái dục si muội. Đấy là hoa gì không ai thắc mắc: một đài sen trong ngần, hay một đóa hoa hàm tiếu, hay một đóa quỳnh đầy hương sắc, hay thậm chí nói như Phạm Công Thiện, đó là hoa rau muống hay hoa cứt lợn nhưng chắc sẽ là một đóa vô ưu. Hai câu thơ trên của ông khiến tôi liên tưởng đến phẩm Tựa trong Pháp Hoa kinh khi đức Thích-ca khai hội Pháp Hoa.

Diệu Hoa là tên gọi, Diệu Pháp là nội dung, Diệu Ý là tư tưởng, Diệu Tâm là Bồ-đề, Diệu Hữu là cuộc đời và Diệu Kỳ là thơ Bùi Giáng.

Tôi không còn nhớ hết những gì ông nói, vì đã 24 năm rồi nhưng ý nghĩa của điều ông nói dường như vẫn ở lại trong tôi những khi tuyệt vọng sau này trong cuộc mưu sinh, những lúc quá mỏi mòn chờ một mùa xuân thật sự trong lòng, trên vai cha mắt mẹ, giữa quê hương, tôi vẫn thường lẩm bẩm một mình: “Người về thảng hoặc mai sau…?”.

Vâng, bao giờ người về, đem một mùa xuân cho an lạc tâm hồn, xa rời đảo điên mộng tưởng dục vọng nhân gian?

(còn tiếp)

Nguyên Cẩn

[Tập San Pháp Luân.38.tr,46.2006]