Trang 1 / 2Cuộc nói chuyện giữa tôi và ông chấm dứt khi trời tối mịt. Tôi cũng ngà ngà và ông cũng thế. Chúng tôi chia tay không bịn rịn vì những điều người cần nói đã có một người nghe và dù không là tri kỷ nhưng chắc chắn đã tri âm.
Người về có nhớ hôm nay…
Rượu say có nhắc một ngày tri âm?
Và tôi bắt đầu những năm tháng nhọc nhằn tuổi trẻ… suốt một thời bao cấp ruổi rong gian nan như một chú ngựa gầy trên đồng cỏ úa, nhưng trong từng trang nhật ký những dòng thơ bâng quơ trong những ngày xa nhà vẫn mãi vương theo những lời Bùi thi sĩ:
Rồi từ đó về sau mang trái đắng
Bàng hoàng đi trong gió thổi thu bay,
Tôi chờ em không biết tự bao ngày
Để thấy mãi rằng thơ không thể gọi…!
Vâng, thơ thì làm gì gọi được ai, cứu rỗi sao được đời, từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mê (TCS). Tôi đã va chạm nhiều trong cuộc đời chỉ để nhận ra một chân lý, tạm gọi là như thế, như Hemingway viết: “Trong thời buổi nhiễu loạn, những kẻ tiếp tục lãng mạn là những kẻ dễ bị tổn thương nhất” và tôi nghiệm ra điều ấy đúng khi những giá trị về sĩ khí, về lương tâm, về thủy chung đang nhạt nhòa sau những giá trị vật chất và mình cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm!
Những suy nghĩ lung linh về một đời sống “người với người sống để yêu nhau”, vỡ tan trước những cơn cuồng phong vật chất:
Cũng vô lý như lần kia dưới lá
Con chim đau bỏ lại nhánh xa cành
Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh.
Viễn tượng trở thành huyễn tưởng, vầng trăng mãi mãi là mộng dù có thực nên con người vẫn khát khao: “Làm sao cho khỏi đói, gió trăng có sẵn; làm sao ăn…” (HMT), và có kẻ ôm trăng mà chết. Thơ Bùi Giáng tự lúc nào đã đồng hành với tôi trong suốt những năm sau đó. Lúc buồn, ngâm nga thơ ông, lúc vui kể lại những giai thoại về ông.
Trên mỗi quyển sách tôi đều ghi lại một vài câu thơ ông đề, tự an ủi mình, như một kẻ đồng hành:
Giã từ cõi mộng điêu linh,
Tôi về buôn bán với mình phôi pha…
Dấu chân ông đi qua cuộc đời này mang nặng tình quê hương thật đằm thắm:
Đây Mỹ Tho Cần Thơ Châu Đốc
Long Xuyên ơi và Sa Đéc em ơi
Trời kỷ niệm đi về trong đáy mắt
Thổi dư vang từ dĩ vãng xa rồi.
…
Bây giờ cành gãy
Xuồng Thu Bồn cá sóng Duy Xuyên
Bữa nào tính mệnh
Con chim chuyền động đậy chưa quên.
…
…Thanh bình chợt tỉnh giấc mơ
Hà Tiên Châu Đốc bây giờ lụt trôi
…
Bây giờ tôi đã quên xưa
Sài Gòn cám dỗ tôi chưa chịu về.
Cứ như thế tôi đã đi cùng người, thở cùng người những ngày thơ Bùi Giáng còn bị xem là món hàng cấm.
Anh đi về ở giữa đời anh
Trời đất du dương sẽ giữ dành
Cơn mộng xuân hồn thu ý tỏa
Cho lòng ngưng tụ khối băng tâm.
Tôi không còn gặp ông nhiều vì xa nhà nhưng những khi về Sài Gòn vẫn nghe anh em kể chuyện ông. Cậu em tôi bây giờ đã mất có kể rằng đã gặp được ông tại quán café Khói ở đường Nguyễn Đình Chiểu một ngày cận Tết và đã được ông ghi tặng hai câu thơ:
Mùa xuân hiện giữa ngàn mai
Nguyên hình nữ chúa trên ngày phù du.
Câu chuyện đang diễn ra thân tình cởi mở thì trong lúc cao hứng, ông lỡ tay quơ trúng cái tách trên bàn rơi xuống vỡ tan. Thấy bà chủ quán trợn mắt tức tối bước ra, ông vội vã đến trước mặt và nói: “Trăm lạy mẫu thân, ngàn lạy mẫu thân, tuổi thơ đáng tội muôn phần”, ông chưa kịp nói hết câu, bà ta đã hét lớn: “Thôi đi đi ông ơi, già không nên nết, dơ dáy…!”.
Đột nhiên mắt ông trợn tròn: “A con mụ này, mày có biết tao là ai không? Tao là Trung niên Thi sĩ đây, tao là Bùi Giáng đây!”. Ông gào to lên, mọi người xúm vào cản ngăn và trách móc bà chủ quán nọ đã quá tiếc một chiếc tách tầm thường. Thậm chí có người còn nói: “Tôi trả tiền cái tách đó cho”.
Thật tiếc cho lần gặp gỡ ấy. Giờ thì ông và cậu em tôi đều đã bỏ cuộc chơi về với sa mù. Một người ở tuổi 73 còn người kia mới có 33. Đi như trong một giấc mơ. Hôm mất, trước bài vị, tôi để tập thơ Bùi Giáng và khấn hãy ứng lấy một bài và bài thơ đó là bài GIÊNG với những dự cảm buồn lạ lùng!
Láng giềng tư lự hoa môi,
Như Lai sầu thảm vì tôi chậm về,
Lục bình tiểu dẫn Tào Khê
Tiền căn chưởng thượng hội tề núi hoa…”
Có lần ông đã đến nhà tôi, hàn huyên cùng cha tôi và khen ông cụ lúc ấy 72 mà răng còn tốt quá, chả bù với ông.
Vẫn còn quanh đây hằng hà sa số giai thoại về ông, một con người đùa rỡn với đời, với người, với mình, với thi ca, với cả oan khiên:
Anh xin em rỡn một ngày
Rồi xin rỡn mãi mộng dài phù du.
….
Hôm nay anh rỡn một ngày,
Rồi anh ngừng rỡn suốt ngày hôm sau.
…
và ông rỡn bằng âm thanh, chơi âm thanh:
O bồng mộng mị nấu nung
Bò ôi tô bún bò nùng đạm thơm.
Sầu chiêm ngưỡng
Hận hy hư
Hoàng sa hô hấp thủy như tha đà.
Kiểu thơ ông viết, cách dùng từ của ông đã có lúc trở thành thời thượng, hay có khi sinh ra những trường phái văn học ‘khều mặt trời’, mù mù khó hiểu. Bây giờ kể lại chỉ còn là những kỷ niệm thật vui khi nhắc đến ngày ấy mình làm thơ triết học.
Cuối đời, ông viết hết sức bình dị như lúc đầu cầm bút thậm chí còn dung dị hơn, hệt như người ta sau những thiên ma bách chiết, gian nan trùng điệp đấu đá với đời hay sau những dằn vặt ưu tư thượng thừa trí tuệ lại trở về với cõi hồn nhiên, với một tâm hồn… “Điên chơi cho bớt điên đầu. Điên đầu cho bớt điên rầu rĩ chơi…”. Thế nhưng ông vẫn thiết tha như tự buổi đầu, “Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn, Hết tâm hồn và hết cả da xương, Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại, Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn”. (Lưu ý Thơ ông không có chấm phết).
Nên ông cà rỡn với cả những người trong bá tánh: “Có phải anh Sáu Giáng đó không?
Và cô, có phải cô Bông năm nào..? Anh điên mà dzui dzẻ thập thành, Chúng em tỉnh táo mà đành buồn thiu…”
Viết về ông như một cây đại thụ trong làng thơ Việt Nam hay nói như Phạm Công Thiện: “Thi ca Việt Nam sẽ lẽo đẽo đi sau Bùi Giáng đến 150 năm!” hay như một vóc dáng thi ca ở một tầng riêng biệt, khó cóp nhặt dẫu có hàng trăm hàng vạn chàng tuổi trẻ ngày xưa, trung niên bây giờ, hì hục sáng tác, say đắm trước lối dùng từ táo bạo, âm thanh kỳ vĩ, ảo ảo huyền huyền của ông mà lăn vào làm thơ dùng bao nhiêu là ngôn ngữ Thiền vẫn nghe quẩn quanh thế nào ấy. Đến một thiên tài như Trịnh Công Sơn mà cũng chỉ: “Trịnh trọng phiêu bồng, thì thơ nhạc cũng đến ngần ấy thôi” (BG). Có khi cái táo bạo ấy lại rất giản đơn: “Dạ thưa xứ Huế bây chừ, vẫn còn núi Ngự bên bờ Sông Hương”, nhẹ nhàng mà thanh thoát đến lạ lùng, hai câu thơ bao hàm cả ý niệm THỜI – KHÔNG, bây chừ, hôm qua hay ngày mai, núi và sông, Hương và Ngự, người và đất, tạo vật cùng thời gian… vẫn đang trôi chảy mà dường như bất biến, như Xuân Diệu từng viết: “Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn...”
Nói về Bùi Giáng rất dễ bị lạc đề vì cái hứng cái thần trong thơ ông quyện với cỏ cây hoa lá mây trời trăng nước mà không đau khổ không dằn vặt, không oán hờn dù có: “Khổ đau về chẳng hẹn giờ, Hoang liêu phố rộng bước hờ hững đi”, không hận mình trách đời, không cay cú cùng tạo hóa, không ăn thua với số phận, không nguyền rủa tha nhân như bao người khác vì ông chấp nhận: “Anh cam chịu cuồng si để sáng suốt, Anh đui mù cho thỏa dạ yêu em”. Ông đã hiểu thấu suốt ý nghĩa của Khổ Đế (Dukkha) “Đời là bể khổ”. Ấy là một sự kiện, một chân lý chứ không hề là một lời tán thán. Bổn phận chúng ta là phải SỐNG một cách trọn vẹn và hồn nhiên hay an nhiên tự tại. Thế nên Bùi tiên sinh yêu đời vô lậu, yêu ba-la-mật, một tình yêu không đắn đo, đòi hỏi, không dằn vặt: “Ta đã làm chi đời ta chưa?” (VHC), không tự hỏi: “Ta là ai mà yêu quá đời này” (TCS), không cay đắng: “Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất, Anh cho em và anh đã mất rồi”. Bùi Giáng yêu mọi thứ cỏ cây hoa lá con người vi trùng sâu bọ… Còn ở lại một ngày còn yêu mãi, Còn một đêm tay vói kiễng chân cao…
Thơ ông mang dáng vẻ kẻ phong trần mang trong mình dòng máu Thiền sư thõng tay vào chợ, hiểu tất cả, biết tất cả, nhìn thấy lý trong sự, sự bày trong lý và tất cả là vô ngại, một tâm hồn thấm đượm triết lý Hoa Nghiêm, con người đến với đời không là gì cả vì nó là tất cả như có ai đó ví như cánh nhạn bay qua giòng sông, bóng in vào lòng nước, phút tao ngộ tình cờ, “Nhạn quá trường không, ảnh trầm hàn thủy, nhạn vô di tích chi ý, thủy vô lưu ảnh chi tâm”.
“Ngồi đây một bận với ta thôi
Ủ lại xuân phơi giữa bốn trời
Gió có dặt dìu lời thủ thỉ
Ngàn tùng soi bóng nước chơi vơi”.
Những hạnh ngộ bất chợt rồi tan đi trong thiêm thiếp sa mù. Như có lần ông dịch Cõi người ta: “Đời vốn như thế. Ban đầu vào cuộc sống! Chúng ta giàu, giàu nhiều, giàu nữa; trong bao năm, chúng ta trồng cây trỉa hột, nhưng ngày tháng trôi, năm sầu lại: thời gian phá vỡ mất công trình; cây rừng bị chặt; bạn hữu từng người rơi rụng xuống. Bóng tùng quân nghìn tầm xiêu đổ, cái con người trơ trụi sẽ còn nghe rọ trong hoang liêu mối ngậm ngùi xuân xanh xa mất” (Saint Exupéry). Đấy là thế giới trong những tương giao vô tận, một động một tĩnh là “Dòng sông đi cho nước nói ngàn ngày, Rằng biển rộng không bến bờ em ạ…” giống như các hào trong Kinh Dịch; hai được phân phối trong ba thành tám, tám lại phân phối trong hai để thành 64, thiên hình vạn trạng, nên một thế giới trùng trùng vô tận mang màu sắc Hoa Nghiêm: hai trong mười và mười trong mười, dị thể và đồng thể trong thập huyền. Con số đạt được là một trăm như trong nguyên tắc Dịch kinh: “Phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân. Trật tự thế giới được phối trí bằng số”.
Nói như Tuệ Sỹ: “Thế là vì muốn thấy và hiểu nên cần có phân tích và phối trí, nhưng cũng muốn sống bằng tất cả tâm tình ẩn khuất của mình, nên ước ao nói bằng những lời không nói của vạn hữu”.
Một trăm cây lá bên rừng
Giữ trong tiếng vọng xa chừng ngàn mây…
Một bờ dương xếp bến sau
Nước cằn cỗi đục nghe đau lá vườn…
Mang tâm vô quái ngại đi giữa cuộc chơi dù ở bên này bờ sông hay qua bỉ ngạn, ông vẫn thấy vạn vật tương dung hòa hợp, ngồi giữa đời mà hát, một chút hình bóng Trang Tử vô vi ẩn hiện, một chút Tế Điên hòa thượng bỡn đùa, một chút Nguyễn Du tài hoa u uẩn, một đôi nét Xuân Hương nghịch ngợm… nhưng bao trùm tất cả là lý duyên sinh, là trùng trùng sinh diệt trong mỗi niệm đi về trong sáu nẻo vô minh.
Đi về trong thế kỷ sau
Nhìn trong mắt thấy đời đau trong mình.
Vâng, nếu còn sống đến hôm nay, nhìn những năm tháng đầu tiên của thế kỷ đang trải qua những thời khắc kinh hoàng của chủ nghĩa khủng bố diễn ra trên đất Mỹ ở sự cố ngày 11-09-2001 và đang hay sắp diễn ra ở các nơi khác, chắc ông phải thấy đời quằn quại đau đến chừng nào, khi những tham vọng hận thù nhân danh tôn giáo, nhân danh thần thánh, nhân danh chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ chà đạp lên sinh mạng, tàn sát đồng loại như những bầy thú dữ với những “Thây người nát ở phía sau, Nghìn thu khép mắt khổ đau khôn hàn”. Có lần Ông đã phải kêu lên: “Thơ ơi em bỏ sa mù, Đi thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau”. Có ai còn nghĩ đến Thơ trong những lúc như thế?
Hiện tại người ta chỉ cầu nguyện: “God Bless America” và chắc sẽ là “God Bless Africa or Iraq or Asia. But Who Bless Americans or Africans or Iraqis or Asians or they themselves have to do it”.
Vâng, “Còn không một bận quay về, Vườn xưa nhìn ánh trăng thề vàng gieo?”. Hãy cùng chắp tay hướng về phương Đông chờ một bình minh mới của nhân loại mà khấn thầm:
“Người về thảng hoặc mai sau…”
Vậy mà khi:
“Quay về cứu vãn cuộc vui
Ngàn thu dứt hột, bùi ngùi giáng xưa”. ■
[Tập San Pháp Luân.39.tr,48.2006]