Sơ chuyển Pháp luân - Tứ đế, Thập nhị nhân duyên

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times



Giới thiệu: 

Bộ Bách khoa Phật giáo toàn thư do Lại Vĩnh Hải và các đồng sự của ông chủ biên có thể được xem như là một hiện tượng độc đáo và nổi bật trong lãnh vực nghiên cứu Phật giáo của Trung Hoa đương đại. Cơ cấu tổ chức của bản văn với bề dày 8 quyển - ngót 4.000 trang - có hệ thống tham chiếu nghiêm túc, khởi đầu từ Kinh điển quyển, Giáo nghĩa quyển-Nhân vật quyển, Lịch sử quyển, Tông phái quyển, Nghi quỹ quyển, Thi kệ quyển - Thư họa quyển, Điêu tố quyển, Kiến trúc quyển-Danh sơn danh tự quyển. Bằng lối văn đơn giản và súc tích có thể nghiệm với tính uyên bác tuyệt vời, nhà biên tập và các cộng sự đã mô tả toàn diện phối cảnh của Phật giáo, khởi đi từ dấu ấn Kinh điển và hành tích ban đầu của đấng Từ Tôn để rồi trải rộng ra khắp thế giới qua những lịch trình tỏa chiếu vĩ đại của chư Thắng tử, nhất là lịch đại Tổ sư của Trung Hoa.

Và, thật vậy, đây là một bản kê biên toàn hảo đầy tính khoa học, trong đó một hoa văn hoành tráng cần phải đề cập đến, đó là, Phật giáo không chỉ có Tam tạng kinh điển không thôi, mà Phật giáo còn có cả một Tạng thứ tư khổng lồ nữa, đó là Tạng nghệ thuật, đúng như Henri de Lulac (nguyên G.s Đại học và Viện trưởng Viện Thần học ở Pháp) đã có lần nhắc đến qua danh tác  Amida bằng tiếng Pháp của ông. Ở đây, bộ Bách khoa nói lên điều đó. Một điểm quan trọng đáng ngạc nhiên hơn hết, lại là Tạng lịch sử Phật giáo, ngoài tính chất cụ thể của không gian và thời gian, hệ thống nguyên văn đã đề cập đến Lịch sử Phật giáo luôn vận hành trong tâm nhân loại, nghĩa là nhiệm vụ của nó chỉ được thành tựu chừng nào thế gian hiển nhiên là Niết-bàn chư Phật, có thể xem quan niệm này như là Tạng thứ năm của Phật giáo được đồng nhất trong quyển thứ hai của nguyên văn.

Xét thấy, Giáo nghĩa quyển - Nhân vật quyển là một bản văn chi tiết hóa giáo nghĩa Phật hữu ích cho bản thân người dịch - về mặt cơ bản Phật học nói riêng, và cho những ai cùng duyên, nói chung. Do vậy, tôi xin được phép chuyển ngữ bản văn ấy trong khả năng quá kém yếu của mình về Hán văn, mong người đọc, nhất là được những bậc thiện trí minh chỉ. Nhân đây, tôi cũng xin G.s Tiến sĩ Lại Vĩnh Hải - hiện là Viện trưởng Viện nghiên cứu văn hóa Trung Hoa, Đại học Nam Kinh [tức là nhân vật chủ biên bản văn] - tùy tâm hoan hỷ, khi việc chuyển ngữ này chưa được sự cho phép của Ngài. (N.D.)

Chánh văn

Theo truyền thuyết, đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni thành đạo dưới cội Bồ-đề, nội dung được Ngài chứng ngộ, trong đó có “Tứ đế” và “Thập nhị nhân duyên.”1 Đức Thích tôn “Sơ chuyển pháp luân” tại “Lộc-dã uyển”. Giáo pháp mà Ngài tuyên thuyết cho 5 vị Tỳ-khưu cũng chính là “Tứ đế” và “Thập nhị nhân duyên”. Sau này, trong các trường hợp, 2 hệ thống giáo nghĩa như vậy được Ngài nhiều lần tuyên thuyết lại. Do đó, “Tứ đế” và “Thập nhị nhân duyên” chính là giáo nghĩa tối cơ bản của Phật giáo. Về sau, tùy theo sự phát triển của học thuyết Phật giáo cho dù có chuyển biến theo những đường hướng to lớn nào đi nữa, thế nhưng mọi phát triển của các học thuyết đó đều phải dựa trên nền tảng của hai hệ thống giáo nghĩa ấy. Hơn thế, bất kể là có những bất đồng nào đó giữa hai bộ phái Tiểu thừa và Đại thừa, nhưng đối với hai giáo nghĩa cơ bản vừa nêu đều được tất cả các bộ phái thừa nhận. Vì lẽ đó, muốn hiểu rõ Phật lý, thì việc lý giải và y cứ ngay từ bước ban đầu người ta phải dựa trên giáo pháp căn bản này.

BỐN ĐẠO LÝ CHÂN THẬT - TỨ ĐẾ

Cái gọi là “Đế”, tức là cái chỉ cho “chân lý”. Kinh điển Phật giáo đã quen dùng từ ngữ này để biểu thị cho “chân lý”, chẳng hạn như “chân đế”, “tục đế”... Chân đế tức là chỉ cho “Đạo lý chân chánh”, “Đạo lý chân thật”, và đây cũng là chân lý tông giáo của Phật giáo; Tục đế chỉ cho “Chân lý thế tục”, nói chung, tức là những gì thuộc về sự vật được chúng sinh thế gian quy định là chân lý, Phật giáo nói rằng chân lý quy ước này là một loại hư huyễn, hoặc là một loại chân lý không triệt để.

Ý nghĩa của “Tứ đế” chính là “bốn loại đạo lý chân thật”. Bốn loại chân lý này đề cập đến một chùm có bốn trạng thái “Khổ, tập, diệt, đạo”. Những gì là bốn? Đó là khổ thánh đế, khổ tập thánh đế, khổ diệt thánh đế và khổ diệt đạo thánh đế” (Trung A-hàm, Phân biệt thánh đế kinh). Thật vậy, bốn chân lý cao quý vừa nêu là giáo nghĩa tối cơ bản của Phật giáo. Tương truyền, sau khi đức Phật thành đạo, Ngài giảng dạy giáo pháp này trước tiên tại Lộc-dã uyển và Ngài cũng đã giảng đi giảng lại nhiều lần chân lý ấy cho các đệ tử của mình sau đó nữa. Như trong Tạp A-hàm, quyển thứ 15 dạy: “Tôi nghe như vậy, một thời, Phật trú tại nước Ba-la-nại trong vườn Lộc-dã, tại tiên nhân đọa xứ. Lúc bấy giờ, Thế Tôn tuyên bố với chư Tỳ-kheo rằng, nếu như thiện nam tử nào có lòng tin chân chánh, từ bỏ gia đình, xuất gia học đạo, người ấy sẽ phải thấu hiểu toàn diện pháp Tứ thánh đế. Những gì là bốn? Đó là thấu hiểu Khổ thánh đế, thấu hiểu Khổ tập thánh đế, thấu hiểu Khổ diệt thánh đế, thấu hiểu Khổ diệt đạo thánh đế. Do vậy, này chư Tỳ-kheo! Chưa từng có sự tách rời ra giữa Tứ thánh đế, chúng phải là phương tiện tinh yếu, phải là sự tu hành không gián đoạn. Mọi kinh nói về Tứ thánh đế sẽ phải nói một cách toàn diện, y như chương cú này”.

Khổ đế

“Khổ đế” là chỉ cho những loại thống khổ của nhân sinh.

Trong Phật giáo, cái gọi là khổ, tức là đề cập đến các loại phiền não bức bách thân tâm, như trong Phật Địa kinh dạy: “Thân và tâm bị bức bách được gọi là Khổ”. Vì vậy, theo lý giải của Phật giáo, trong thực trạng đời sống, Khổ là một loại hiện tượng tồn tại phổ quát. Không có ai trên đời này là không khổ đau. Mục đích tối chung của việc tu Phật chính là cần giải thoát khỏi khổ đau bức bách thân tâm này. Bao nhiêu lý luận giáo nghĩa của Phật giáo đều luôn vi diệu, thậm thâm, vậy vì sao chúng sinh lại phải lãnh thọ hay giới hạn đời mình trong sự thống khổ như vậy và bằng cách nào triển khai phương pháp giải khổ. Thế thì, “Khổ” đã đóng một vai trò vô cùng trọng yếu trong giáo nghĩa của Phật giáo. Do vậy, trong chùm “Tứ đế”, “Khổ đế” đứng ở vị thế đầu tiên. Phật giáo cho rằng chỉ khi nào thấu hiểu một cách rõ ràng, rằng chúng sinh tức là Khổ, thì khi ấy người ta mới có thể tiến bước truy tìm nguyên nhân khổ và mới có thể có được phương pháp giải Khổ. Ta nên kết luận rằng, học thuyết lý luận về Khổ là điểm xuất phát của rất nhiều học thuyết giáo nghĩa của Phật giáo.

Phật giáo cho rằng, mọi nhân sinh trong xã hội thế tục này - nói theo bản chất của chúng - đều là thống khổ. Đây là sự phán đoán có giá trị của Phật giáo đối với nhân loại và xã hội. Phật giáo cho rằng, một đời người, từ lúc sinh ra cho đến khi chết, người ta hoàn toàn đeo lấy các loại thống khổ và phiền não. Trong những trạng thái như vậy, chúng có thể được tiến hành phân tích bằng nhiều góc độ, nhiều cấp bậc khác nhau một cách khái quát. Trong kinh điển Phật giáo, sự thống khổ có khi được mô tả là hai, là ba... thậm chí có đến hàng trăm trạng thái, cụ thể là 111 trạng thái.

Nhị khổ (hai loại khổ) 

Tức là ngoại khổ và nội khổ (cái khổ do nguyên nhân nội tại và cái khổ do nguyên nhân ngoại tại). Nội khổ là các loại thống khổ và phiền não do chính thân và tâm của mình đeo mang và ngoại khổ là sự thống khổ do các loại nhân tố của khách thể đem lại. Luận Đại trí độ, quyển 19 cho biết: “Nội khổ được gọi là lão, bệnh, tử..., ngoại khổ được gọi là do đao, gậy, lạnh, nóng, đói, khát, v.v… Có thân là có khổ vậy”. Phân tách tiến lên một bước nữa, nội khổ vẫn có thể chia ra làm hai loại: Sự thống khổ trên mặt sinh lý do các loại tật bệnh mang lại, gọi là thân khổ; do những trạng thái tình cảm như ghen ghét, đố kỵ… mang lại, khiến cho người ta đau khổ và phiền não trên mặt tâm lý, các trạng thái này gọi là tâm khổ. Cũng vậy, ngoại khổ có thể phân ra làm hai: 1/ Khổ phát sinh do xã hội, chẳng hạn như gặp trộm cướp bủa vây, hoặc là do tai họa của chiến tranh. 2/ Khổ do điều kiện tự nhiên, như gió, mưa, nóng, lạnh, v.v… và các loại thiên tai khác tạo thành nguyên nhân của thống khổ. 

Tóm lại, nội khổ: 1/ Thân khổ - sự thống khổ trên phương diện sinh lý của chúng sinh do tật bệnh đưa đến. 2/ Tâm khổ - các loại phiền não thống khổ do tâm lý và sinh lý làm nguyên nhân phát sinh.

Ngoại khổ: 1/ Sự thống khổ tạo thành do nguyên nhân xã hội. 2/ Sự thống khổ tạo thành do nguyên nhân tự nhiên.

Tam khổ

Là cảm giác tiếp nhận sự thống khổ đối với cá thể hữu tình, mà qua đó ta có thể tiến hành phân tích và phân loại thêm. Phật giáo cho rằng, tính chất phổ biến của chúng sinh hữu tình là thích vui, sợ khổ… Chúng sinh tham luyến thân này, nên tất nhiên là thân có nguyên nhân được cảm thọ lạc [thú vui]. Tình cảm chủ quan của con người tương tác đối với hoàn cảnh khách quan làm phát sinh bao loại cảm giác. Ta có thể chia ra một vài cảm giác như vậy thành ba loại quy mô với tính cách chung: cảm giác khổ, cảm giác vui và cảm giác không vui không khổ. Luận Đại trí độ, quyển 19 dạy: “Do lục tình ở bên trong hòa hợp với lục trần (6 cảnh trí ở bên ngoài), nên sinh ra 6 loại thức. Sáu thức sinh ra ba loại cảm thọ: khổ thọ, lạc thọ và không khổ không lạc thọ. Mọi chúng sinh ham thích lạc thọ và hoàn toàn không thích khổ thọ, còn không khổ không lạc có nghĩa là không nắm lấy cũng không xả bỏ [tức là trạng thái trơ, vô ký]”. Do ba loại cảm thọ này mà nói đến ba khổ tướng, tức là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.

1. Khổ khổ 

Do tác dụng khách quan tạo nên sự thống khổ đối với thân và tâm nhân loại, khiến cho thân tâm của họ phát sinh cảm giác thống khổ, cái được gọi khổ khổ chính là đây. Phật giáo cho rằng, tất cả các pháp hữu lậu đều là khổ khổ (chỉ cho tất cả các pháp đưa chúng sinh hữu tình lưu chuyển trong sinh tử luân hồi, tức là khổ chồng thêm khổ).

2. Hoại khổ 

Nói đến hoại khổ là nói đến sự tương quan với lạc thọ. Nếu như thuyết minh về khổ khổ so ra dễ thuyết minh hơn là hoại khổ. Nói theo cách liên quan đối đãi để người ta có thể nhận thức được thì hoại khổ khó lý giải hơn. Dựa vào bản chất của chúng sinh, Phật giáo cho rằng, tất cả đều thích vui sợ khổ, mặc cho tình thức đuổi theo hoàn cảnh vui và thụ dụng cảm giác khoái lạc. Thế nhưng, cái mà phàm phu cho là lạc ấy, nó chẳng phải là cái lạc chân thật, Phật giáo xem đấy chỉ là một loại hiểu biết [cảm nhận] hư vọng giả tạm, cần nên từ bỏ. Vậy, Phật giáo muốn đề cập đến cái gì? Theo giải thích của luận Đại trí độ, cái gọi là lạc là cái luôn đối đãi với khổ, do so sánh mà sanh ra một loại cảm giác. Chẳng hạn, một người bị phán phải tội chết, nếu như người ấy được cấp thẩm quyền cao hơn xét miễn tội hay đại xá, hoặc là phạt tội bằng hình tước [tội đánh bằng gậy] thay cho tội chết, thế thì nhất định anh ta vô cùng mừng vui. Hình tước vốn là khổ sự, thế nhưng nó thay cho tội chết, nên khiến cho tội nhân cảm thấy rất vui. Từ đó có thể nhận ra rằng, nói đến khổ và lạc là nói đến việc so sánh, đối đãi giữa trạng thái này với trạng thái khác, nghĩa là, cái khổ nhỏ đôi khi cũng là lạc thọ và ngược lại. Hơn thế, cái mà thế gian cho là lạc, vốn là “vô thường”. Vô thường là nói về bản chất của nó, trên mặt thực tế, nó cũng là khổ thôi. Chúng sinh đắm trước nơi lạc, mà không biết cái lạc này chưa bao giờ là cái “lạc” chân thật, nó không thể là cái lạc lâu bền. Một ngày kia, do điều kiện khách quan và các tâm tố chủ quan chuyển di biến hóa, thì cái lạc ấy chuyển sinh biết bao phiền não mà thành ra hoại khổ. Luận Đại trí độ nói: “Hành giả quán lạc thọ ấy, biết nó một cách thật sự là không có lạc gì cả. (Đã không có lạc) mà toàn là khổ sự, tại sao vậy? Lạc được cho là lạc chân thật, thì không có điên đảo, mọi lạc thọ của thế gian, đều [sinh ra] từ điên đảo, lạc ấy không có tính chân thật”.

3. Hành khổ

Hành khổ tương ưng cùng cảm giác bất lạc bất khổ. Phật giáo cho rằng tất cả các pháp hữu vi, tức là tất cả thế gian đều nằm ở trong tình trạng tương quan liên hệ giữa hiện tượng tinh thần và vật chất, thời thời khắc khắc chuyển lưu biến động, thời thời khắc khắc đều đang phát sinh biến hóa sinh diệt. Hiện tượng này cũng chính là vô thường, là không an ổn, mà vô thường và không an ổn chính là khổ, điều đó được gọi là hành khổ. Hành khổ vận chuyển trong mọi pháp hữu vi của thế gian, tức là vận hành trong tất cả hiện tượng vật chất cũng như tinh thần của thế gian, do đó, trong hành khổ bao hàm cả hai trạng thái khổ khổ và hoại khổ nữa. Ta có:

Ba loại cảm thọ: 1/ Khổ thọ. 2/ Lạc thọ. 3/ Bất khổ bất lạc thọ.

Ba loại khổ: 1/ Khổ khổ. 2/ Lạc khổ. 3/ Hành khổ.

Tứ khổ

Đó là sinh, lão, bệnh, tử. Bốn loại này là sự nhận thức khái quát của Phật giáo đối với toàn bộ hiện tượng sinh mệnh thế giới, cũng có thể cho là cách phán quyết có giá trị của Phật giáo đối với nhân loại. Phật giáo cho rằng, có sinh hẳn là có tử, vì vậy, bản thân của sự sinh vốn đã bao hàm căn nguyên của sự tử. Phần đông chúng sinh đều ham sống sợ chết, sao lại chẳng biết rằng, sống là mở đầu cho sự chết? Nói theo một ý nghĩa nào đó, thì sự tăng trưởng của sinh mệnh [mạng sống], cũng là hướng đến việc tiếp cận với tử vong. Hơn thế, trong quá trình duy trì mạng sống, bản thân của sinh hoàn toàn dựa trên sự tồn tại của các loại thống khổ. Sinh là hình thái vận chuyển của các loại khổ, do vậy, bản thân của sự sống chính là khổ. Xét theo học thuyết nhân quả luân hồi của Phật giáo, sinh là bắt đầu một vòng quay mới của luân hồi. Sự luân hồi của mạng sống không có viễn cảnh dừng [cảnh chỉ, 境止]. Phiền não và thống khổ cũng y như vậy, muốn nghĩ đến bất tử, thì nên biết đến vô sinh. Ba loại khổ là lão, bệnh, tử còn lại cũng rất dễ dàng lý giải.

Ngũ khổ

Bốn loại khổ như trên đã nêu hợp lại làm một, tức là cái khổ của sinh, lão, bệnh, tử. Cộng thêm bốn cái khổ nữa, đó là, thương yêu mà bị chia lìa (ái biệt ly khổ), khổ vì không muốn đối mặt với oán thù mà lúc nào mình cũng phải gặp (oán tắng hội khổ), khổ vì mong cầu không được (cầu bất đắc khổ), khổ vì năm ấm quá hưng thịnh (ngũ ấm xí thịnh khổ, chẳng hạn thân quá đẫy đà nên thường hay khổ vì tham dục...) gọi là ngũ khổ. Sinh, lão, bệnh, tử là hiện tượng sinh lý của nhân loại, do vậy, chúng là sự thống khổ trên mặt sinh lý, mà yêu chia lìa, oán thù hay gặp, và mong cầu chẳng được là thuộc về hiện tượng tâm lý, đem thống khổ đến trên mặt tâm lý.

Bát khổ

Tám loại khổ này là một trong những pháp số thường thấy trong kinh điển Phật giáo.Thật ra, bát khổ cũng chính là cách phân hợp của năm loại khổ vừa nêu, nghĩa là đem cái khổ của sinh, lão, bệnh, tử hợp lại làm một, tách ra mỗi thứ theo tính loại riêng biệt thành bốn sự khổ, rồi cộng thêm yêu chia lìa, oán thù hay gặp, mong cầu chẳng được và khổ vì năm ấm quá hưng thịnh thì thành ra tám loại khổ. Kinh Niết-bàn dạy: “Tám tướng gây khổ, đó là sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, chia ly khổ, oán thù khổ, cầu không được khổ, năm ấm hưng thịnh khổ”. Tám loại khổ này, Phật giáo tiến hành phân tích theo mỗi loại đối với hiện tượng sinh mệnh của chúng sinh và đưa ra kết luận, đây là cơ sở thuộc về quan điểm có giá trị sinh mệnh và nhân sinh quan của Phật giáo. Phật giáo chỉ ra các khổ tướng như vậy, mục đích chủ yếu là chỉ cho chúng sinh thấu rõ sự lưu chuyển sinh tử của sinh mệnh mình, khiến cho họ khởi tâm sợ hãi và xa rời sinh tử để tìm cầu giải thoát. Do vậy, khổ là một trong những học thuyết cơ bản của Phật giáo.

Nói đến khổ do sinh, bởi vì sinh là đầu mối của tử, sự phát triển của sinh mệnh, chính là quá trình tương tục tiếp cận tử vong. Cái mà người ta gọi là sinh này, là chỉ cho tất cả sinh vật có mạng sống có tình thức. Sinh mệnh là kết quả của năm ấm hoặc cho là kết quả của năm ấm tích tụ cũng vậy, khi năm ấm đã phân ly rồi, thì chẳng có sự hiện hữu nào của sinh mệnh cả. Còn một phương diện khác nữa, chu trình tồn tại sinh mệnh của một chúng sinh đã là một quá trình dẫy đầy khổ đau phiền lụy rồi. Khi sinh mệnh mới chào đời là khổ đau hiện hữu, trong tiến trình trưởng thành, sinh mệnh cảm nhận bao phiền não đớn đau qua mọi khía cạnh của thân tâm, thế nên nói sinh là khổ. “Này chư Hiền! Nói sinh là khổ, tức là nói khi chúng sinh sinh ra, thân nhận lấy sự khổ, là nhận lấy toàn diện cảm thọ, biết toàn diện cảm giác; tâm nhận lấy sự khổ, là tâm nhận lấy toàn diện cảm thọ, biết cảm giác toàn diện; thân tâm nhận lấy sự khổ, là thân tâm nhận lấy toàn diện cảm thọ, biết toàn diện cảm giác; thân tâm nóng bức, là thân tâm nhận lấy cảm thọ toàn diện, biết cảm giác toàn diện; thân thể cường vượng [sự cường vượng của thân làm mồi lửa] bừng cháy âu lo phiền não, thân nhận lãnh cảm thọ toàn diện biết cảm giác toàn diện, tâm cường vượng [chất liệu cường vượng của tâm làm mồi] bừng cháy lo âu phiền não, tâm nhận lãnh cảm giác toàn diện biết cảm giác toàn diện; thân tâm cường vượng bừng cháy lo âu phiền não, thân tâm nhận lãnh cảm thọ toàn diện biết cảm giác toàn diện. Này chư Hiền! Nói đến sinh là tử, do vậy nên thuyết ra” (Xem Trung A-hàm, những trích dẫn bên dưới cũng từ bản kinh này).

Nói bệnh là khổ, bởi vì khi chúng sinh bệnh, thân và tâm của họ luôn bị ma bệnh mài cắt, dày vò, khiến cho thống khổ vô cùng. Do vậy nói bệnh là khổ.

Nói chết là khổ, bởi vì, chết là sự kết thúc của sinh, “Này chư Hiền! Chết là mệnh chung vô thường của chủng loại chúng sinh ấy, là tử tang tán diệt, là sự phá hoại triệt để của [tuổi] thọ, là sự đóng bít mệnh căn, [dữ kiện] ấy được gọi là sự chết”. Khi chúng sinh lâm chung, thân tâm nhận lãnh bao nỗi thống khổ dày vò, do đó mà nói chết là khổ.

Yêu thương mà chia lìa là nói đến con người hay sự vật được chúng sinh yêu thích qua thân và tâm, thế nhưng luôn luôn đây đó tách ly, chẳng thể tương phùng như ý nguyện. Đối với những gì mà ta yêu, ta thích, đối với thân bằng quyến thuộc được chính mình thương mến, người ta luôn kỳ vọng đoàn tụ vĩnh viễn chung với mình. Niềm vui tương tụ thân bằng là một “đại lạc sự” của đời người, thế nhưng “cõi đời này chưa từng có chiếu chăn nào mà không hư tán”. Ngày kia chiếu rách người xa, càng hội ngộ bao nhiêu thì càng mang đến buồn đau dường ấy; và có được chăng, nếu chẳng thể chẳng chia ly với người mình yêu mến, càng tưởng đến lòng càng đổ vỡ đớn đau. “Này chư Hiền! Yêu thương mà chia lìa là khổ. Nói rằng chúng sinh thực có 6 xứ ở bên trong, cái xứ của con mắt, của mũi, tai, thân và ý, lưu luyến ái dục, chúng phân tán đặc thù chẳng thể tương ưng, tách rời không hội tụ, chẳng nhiếp chẳng tập, và cũng không hòa hợp nên gọi là khổ. Như thế ở bất cứ nơi đâu, càng cảm thọ lạc, càng tưởng tư ái luyến, thì ở đó cũng lại y như vậy. Này chư Hiền! Chúng sinh thật sự có 6 giới [yếu tố], cái địa giới của ái [cái cõi có yếu tố như là đất làm phát sinh ái dục], cái giới của thủy, hỏa, không, phong và thức [tức là năm yếu tố thuộc về năm đại làm phát sinh cảm giác], chúng phân tán đặc thù chẳng thể tương ưng, tách rời không hội tụ, không nhiếp không tập, không hòa hợp là khổ, đấy được gọi là ái biệt ly khổ”. Nói chung, các chủng loại vừa nêu đều mang đến cho ta nỗi thống khổ trên cả hai mặt thân và tâm. Do vậy, ái biệt ly là khổ.

Oán thù mà hay gặp là khổ, cái khổ này gần giống với ái biệt ly khổ. Chẳng hạn, một người nào đó chống đối hoặc áp bức mình hay ngược lại, hoặc các sự vật đã từng cùng ở chung với mình, y như trên đã nói, chúng luôn mang đến vô vàn thống khổ. “Này chư Hiền! Nói oán thù thường hay gặp là khổ, vì sao mà nói như thế? Này chư Hiền! Oán thù thường hay gặp, là nói đến chúng sinh thực có sáu giới, đó là cái giới của địa, không yêu thích, cái giới của thủy, hỏa, phong, không. Chúng cùng hợp nhất có nhiếp và tập [thu hút và tụ lại, tức là chúng hay chiêu vời hận cũ, oán xưa, mà thật ra mình không mong đối diện], cộng hợp là khổ, đấy được gọi là oán thù mà hay gặp là khổ.” Tục ngữ có câu: “Oan gia hiệt lộ - đường oan gia thường hẹp”, hiện tượng này trong cuộc sống hiện thực xảy ra rất nhiều. Đấy cũng là một nỗi khổ lớn của nhân sinh. 

(còn tiếp)

Chú thích

1. Theo Weber-Brosamer và Dieter M.Back, đức Thế Tôn còn dạy hạnh thường lễ Phật nữa, khi Ngài thành đạo dưới cội Bồ-đề, và lễ Phật đã thành nên truyền thống tôn quý của Phật giáo được tìm thấy trong kinh tạng Pāli. “... Der Pāli-kanon, von dem aus wir in etwa auf die allgenmeine... des Erhabenen unter dem Bodhibaum in Bodh Gayā beginnen und lehrt gleichzeitig als Inhalt dessen...” (Bedigung / die Philosophie der Leere). N.D.

[Tập San Pháp Luân.34.Tr,37.2006]