Trang 3 / 3
Có chăng đạo Phật đang thoái trào và sẽ có một ngày tàn của Phật giáo. Ngày đó còn bao xa và sẽ như thế nào?
Đem chuyện ký ức của hàng trăm thế kỷ để nói chuyện cường điệu biển trời qua vài trang giấy thì cũng chỉ là một cuộc chơi đuổi bắt phù dung. Hay có khá hơn chăng thì cũng chỉ là “phù thế giáo một vài câu thanh nghị” theo tinh thần kẻ sĩ Nguyễn Công Trứ giữa đời. Ước mong, qua hình thức đối thoại hay độc thoại nho nhỏ này sẽ mang lại chút tinh thần hào sảng và thống khoái nhẹ nhàng như gặp bạn hiền chia sẻ một “chung trà tâm sự” đầu năm.
Bài viết của cả hai tác giả, Allen Carr và NHL đều có chủ đích nói lên thực trạng đáng quan ngại về Phật giáo trước sự vận động truyền đạo và cải đạo quy mô và năng động của các tôn giáo viễn chinh thế giới. Dẫu đồng ý hay không, ý kiến của họ cần được lắng nghe, nhưng đồng thời cũng cần được góp ý.
Lên Kế hoạch cho Ngày Tàn của Phật giáo (Planning the Demise of Buddhism) là nhan đề một bài điểm sách của Allen Carr. Đây là bài viết nhận định về cuốn sách “Những nhóm dân tộc trong thế giới Phật giáo: Cẩm nang của tín đồ Tin Lành” (Peoples in the Buddhist World: A Christian Prayer Guide) của Paul Hattaway.[3]
Theo Allen Carr, cuốn sách “Những nhóm dân tộc trong thế giới Phật giáo: Cẩm nang của tín đồ Tin Lành” của Hattaway, tuy là một cuốn sách viết về đạo Phật nhưng chẳng nói gì về lý thuyết nhà Phật cả. Suốt 453 trang của cuốn sách, tác giả Hattaway chủ yếu nói về nỗ lực và các phương thức vận động, lôi kéo và chinh phục mới – quyết liệt và năng động nhất – để truyền đạo và tìm cách cải qua đạo Tin Lành đối với thế giới đạo Phật tại châu Á. Đối tượng được liệt kê và điều nghiên cụ thể là 316 nhóm dân tộc trải dài và vòng quanh từ Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Đại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Cam Bốt, Miến Điện, Tích Lan và các vùng xa, vùng sâu nằm giữa biên giới núi rừng của các nước châu Á. Hattaway nhấn mạnh và đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể trong tác phẩm rằng, với cấu trúc lỏng lẻo của một hệ thống tôn giáo quá tự do, các tu sĩ và tín đồ Phật giáo là những đối tượng rất dễ chinh phục cho những nỗ lực vận động cải đạo. Nếu cộng thêm vào đó, Tăng-già không hòa hợp gây trở ngại cho tứ chúng đồng tu thì kiến trúc của tổ chức Phật giáo rất dễ chao đảo và nghiêng đổ trước những cơn gió quét của thời đại. Allen Carr tỏ ra quan ngại về khả năng lụi tàn của Phật giáo. Theo ông, nếu không có một sự chấn hưng bắt kịp thời đại thì trước sự tấn công cải đạo, Phật giáo sẽ rất khó vững vàng truyền thừa hành đạo trong một tương lai trước mắt.
NHL là một luật sư, một giáo sư triết học đang hành nghề tại Hoa Kỳ. Ông cũng là một cây bút về nhiều đề tài rất tế nhị và nhạy cảm thuộc thể loại chính luận. Do có nhiều dịp tiếp cận với thực tế sinh hoạt chính trị, xã hội, giáo dục và tôn giáo Việt Nam trong và ngoài nước, nên bài viết của ông vừa có dạng nghiên cứu, vừa mang tính quan sát, bình luận và hiện thực phê phán.
Với NHL, quan điểm triết học đóng vai trò chủ đạo trong bài viết về đạo Phật. Mở đầu bài viết, NHL xác định hiện tượng “thoái trào” – mạt pháp (?!) – của đạo Phật đang xảy ra như sau:
“1. Trí thức Phật tử Việt ở hải ngoại bỏ chùa để theo tu học các giáo phái khác.
2. Quần chúng ở trong nước, ở các vùng thôn quê vốn có ảnh hưởng Phật giáo, nay đi theo đạo Tin lành ngày càng đông.”
Tiếp theo, NHL nêu lên động lực làm cho đạo Phật Việt Nam thoái trào là vì giáo lý nhà Phật xa vời, khó hiểu như một hiện tượng biểu dương chữ nghĩa, không đáp ứng được khát vọng tri thức và nhu cầu tâm linh của những con người trong thời đại mới. Ông viết: “Có nhiều lý do cho sự thoái trào này. Trong bài này tôi chỉ nêu lên hai vế của một vấn đề khái niệm và ngôn ngữ: cái gọi là “Tính Không” và “Thượng Đế”. Khi giáo lý nhà Phật - vốn được hiểu bởi quần chúng - phủ nhận “Thượng Đế” và “linh hồn”, thì đối với tâm thức khát khao niềm tin của con người thời đại, Phật giáo không còn hấp dẫn đối với họ. Trên phương diện học thuật, khi “Tính Không” trở thành một đối thể tri thức cho trí thức Phật giáo, khi trò chơi ngôn ngữ nay đã trở thành một “bình ruồi” (nói theo Wittgenstein) mà kẻ tham dự không thoát ra được, Phật giáo chỉ còn là một hoài niệm hay là một tự ái bản sắc cá nhân.”
Mở đầu xây dựng luận điểm, NHL đã dùng quan điểm triết học ứng dụng (applied philosophy) của trường phái chữ nghĩa thực dụng Wittgenstein, Heidegger, Dewey và Marx[4]vào thời kỳ những năm 1930 để làm phương tiện nhận định và phân tích về khái niệm thuộc phạm trù tri thức luận như Tánh Không của đạo Phật. Qua lăng kính “ứng dụng”, NHL đã thấy lý Tánh Không của đạo Phật cũng tương tự như cái bình ruồi của Wittgenstein(!). Với Wittgenstein, biểu tượng bình ruồi là hình ảnh những con ruồi nằm trong bình thủy tinh, thấy cảnh vật xung quanh nhưng không bao giờ đụng tới được. Đây là một cách hình tượng hóa về tính chất phù phiếm; về trò chơi chữ nghĩa xa vời, viễn vông mà chẳng thực hiện được điều gì cụ thể trong thực tế của hệ thống triết học cổ điển. Ludwig Wittgenstein cho đó là một hình thái ngôn ngữ bị lâm nguy giữa hai cực đoan ù lì và thánh hóa (idle and idol). Wittgenstein và những triết gia cùng khuynh hướng đã ra sức cổ súy cho một nền triết học ứng dụng, đem tư tưởng và chữ nghĩa vào đời sống hiện thực để góp phần xây dựng và cải tạo xã hội. Chính bản thân triết gia Wittgenstein cũng đã có lúc xông xáo “áp dụng” tư tưởng triết học thực dụng của ông bằng cách ra khỏi tháp ngà sách vở, bắt tay vào cuộc sống hiện thực, dạy học cho trẻ con ở những vùng quê xa xôi, phụ làm vườn... và những công việc tay chân.
Về mặt kinh điển và nguyên lý, Tánh Không là tư tưởng chủ đạo, là trái tim của toàn bộ hệ thống triết lý Phật giáo. Cả ba pháp thế gian (phàm nhân), pháp quán niệm thế gian (hành giả) và pháp xuất thế gian (bậc chứng ngộ) đều lấy Tánh Không làm cửa ngõ đi vào Tánh Phật. Giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia đang tụng niệm, suy niệm và quán niệm trong quá trình tu học và hành đạo hàng ngày trực chỉ Tánh Không. Đó không phải là “cái gọi là” làm bánh vẽ trang trí tri thức mà là “nguồn khai phóng” xác tín và độc sáng của đạo Phật để làm căn bản xây dựng cách nhìn về vũ trụ và con người. Trí tuệ bát-nhã không phải là một trò chơi chữ cao cấp theo kiểu triết học thuần lý phương Tây mà là một quá trình nhìn sâu, nhận rõ, nắm bắt, dùi mài, tu chứng và ứng dụng tuệ giác vào công cuộc xả ly tham vọng, cứu khổ cho mình và cho đời. Người hiểu Đạo (Phật) không phải là những con ruồi bị nhốt trong bình thủy tinh “thấy vậy mà không rớ vào được” kiểu Wittgenstein. Ngược lại, người theo đạo Phật nhờ hiểu đạo nên đủ sức mạnh để đập vỡ cái bình của vô minh và dục vọng để tìm cầu giải thoát và an lạc. Tánh Không thực sự là một triết lý sống (living philosophy) chứ không phải là một sản phẩm hoang tưởng để đi tìm đất ứng dụng cho bầy ruồi của Wittgenstein như theo lối suy diễn của tác giả NHL.
Để góp ý một cách cởi mở và thoải mái với NHL, Allen Carr và luôn cả với Paul Hattaway, xin được chia bài viết này thành 4 phần nhỏ để tiện theo dõi:
1. Đi tìm Thượng Đế
2. Thượng Đế, Tánh Không.
3. Ngày tàn của đạo Phật (?!)
4. Tánh Phật giữa đời thường.
Phần 1:
ĐI TÌM THƯỢNG ĐẾ
Thượng Đế là ai?
Cho đến bây giờ và có lẽ là mãi mãi, Thượng Đế không thể là một thực thể hay đối tượng nào khác hơn:
- Là Chân Lý là Sự Thật.
Nhưng lại không có cái thước đo tuyệt đối của chân lý. Chẳng hạn như với nhị nguyên luận của Pascal thì những gì phía bên này dãy Pyrenees cho là chân lý thì bên kia là sai lầm. Thay đổi những định kiến tư tưởng còn khó hơn là dời chỗ dãy Pyrenees.
Khi giả dối, độc ác, áp bức, hoang tưởng... và vô số cái vọng động, vọng tưởng xấu xa, tiêu cực, đen tối mất đi thì ánh sáng trong ngần xuất hiện: Sự Thật hiển lộ. Sự Thật là sự thật. Không có một khái niệm hay một định nghĩa nào hay hơn, khác hơn ngoài Sự Thật chính là sự thật. Đó là chân lý tuyệt đối mà ai muốn hình dung hay gọi bằng một danh xưng nào tùy nghi phương tiện thì cứ việc tự do nhưng đừng bắt buộc người này phải nói nhại theo người nọ mới tìm được chân lý đích thực.
Xin được gọi Sự Thật là Thượng Đế như một quy ước ngôn ngữ tạm thời.
Hệ thống tôn giáo tin vào Thượng Đế được xem như cổ xưa nhất của loài người là Ấn Độ giáo (Hinduism). Ấn Độ giáo tin Brahman là Thượng Đế đã căn cứ vào Vệ Đà và Áo Nghĩa Thư (Upanishad là kinh văn có cả mười nghìn năm trước) đã dùng phương pháp Phủ định luận (Negative theology hay Apophatic theology)[5] để nói về khái niệm Thượng Đế. Trong Áo Nghĩa Thư, ngôn từ chính để nói về Thượng Đế là “Neti Neti”. Nghĩa là “Không phải cái này mà cũng chẳng phải cái khác”. Ngôn ngữ, quy ước và sự hiểu biết nhỏ bé, cạn cợt của con người về Thượng Đế không đủ khả năng diễn đạt về hình tượng và yếu tính của một Sự Thật uyên nguyên nên phải tạm gọi bằng ngôn ngữ dân gian là Thượng Đế. Đức Phật đã thuyết về sự thật tuyệt đối đó là Tánh Không. Tương tự như thế, Lão Tử đã gọi Thượng Đế là “Đạo”: Đạo mà hiểu theo khái niệm của đời thường thì chẳng phải là Đạo (Đạo khả đạo phi thường Đạo).
Về căn bản, Phủ định luận về Thượng Đế không dám xác định bất cứ điều gì về Thượng Đế nhưng chỉ chối bỏ những gì là tiêu cực theo cái hiểu của thế nhân nơi Ngài (như Thượng Đế không độc ác, không ích kỷ, không tham lam, không nhỏ nhen, không dối trá...). Phủ định luận được sử dụng nghiêm cẩn trong các tôn giáo thuộc đạo Chúa đưa ra lý giải rằng:
- Chẳng có khái niệm hiện hữu hay không hiện hữu nào của loài người áp dụng được khi nói về Thượng Đế. Thượng Đế ở ngoài mọi khái niệm hiện hữu và không hiện hữu của nhân loại.
- Thượng Đế không xấu, không tốt, không phàm, không thánh, không nhận thức được, không hình dung được... theo tri thức của con người.
Như thế thì Tánh Không là Sự Thật uyên nguyên, là Thượng Đế vì đó là một tri thức không có một tự tánh thường hằng bất biến mà tri thức giới hạn của con người có thể hiểu được. Quá trình sáng tạo ra vũ trụ và thế giới là một hợp duyên do duyên khởi mà thành.
Thế giới phương Tây bị tha hóa hay trở thành xa lạ với phương Đông vì truyền thống thâm căn cố đế khư khư giữ độc quyền về khái niệm Thượng Đế trong chiếc nôi văn hóa châu Âu. Trong khi Thượng Đế vừa là một đáp số mà cũng vừa là một ẩn số hay nói đúng hơn là “một đáp số của một ẩn số không thể trả lời mà chỉ có tin hay không tin vô điều kiện” đối với thế giới loài người. Đáp số: Vì ngỡ như là đã nắm được sự thật. Ẩn số: Vì vẫn còn hướng vọng về Sự Thật bằng cái tâm thường xuyên dao động và cái ý thường xuyên thay đổi.
Từ khi có bóng người xuất hiện, đối diện với những hiện tượng và năng lực thiên nhiên như nắng mưa, sấm sét, bão tố, lũ lụt… thì vô hình chung, khái niệm và hình tượng của một nguyên nhân gây ra hiện tượng và năng lực đó được nghĩ đến, được hình thành. Người cổ sơ đã biết tìm về sức mạnh suối nguồn uyên nguyên đó qua các biểu tượng trung gian như thờ lạy một ngọn núi, một tảng đá, một ao hồ, một con sông, một ông hay bà thần sấm sét mưa nắng… tưởng tượng. Đấy là những nhà “tiên tri” đầu tiên của một hình thức tôn giáo phiếm thần hay bái vật giáo mà lịch sử tiến hóa của nhân loại còn ghi khắc cụ thể.
Xã hội và tri thức con người càng tiến bộ thì đời sống tâm linh cũng trở nên vi tế và phức tạp hơn; nhiều giáo chủ và hệ thống tôn giáo ra đời dưới hình thức sử thi truyền khẩu, sấm ký, bùa chú, thánh thư, kinh điển. Tuy hình thức có khác, nhưng bản chất tâm linh vẫn là Chung nhất (Oneness) khi tri thức con người phải dừng lại ở một giới hạn quá tầm năng lực tưởng tượng; như khi nói về độ lớn của không gian vô cùng và chiều dài của thời gian vô tận chẳng hạn. Ngay cả khoa học ngày nay cũng không thể lý giải khi đụng đến câu hỏi là còn có gì bên kia khoảng cách vũ trụ xa hàng tỷ tỷ tỷ… năm ánh sáng. Giới hạn tri thức trở thành một vấn nạn đòi hỏi phải có đáp án. Đáp án đó là một khái niệm mới. Khái niệm mới lại trở thành một ẩn số. Có thể gọi đó là một “ẩn-số-đáp-số-tín-ngưỡng” mà không sợ sai vì chẳng ai có chứng lý nào ngoài niềm tin thuần túy của chính mình để làm tiêu chuẩn đưa ra phản bác hay thừa nhận cả. Mọi khái niệm trong dạng “ẩn-số-đáp-số-tín-ngưỡng” đều có giá trị ngang nhau: Lớn, bé, cao, thấp, đen, trắng, mạnh, yếu… đều giống nhau vì không thể hình dung hay so sánh được. Con người từ cổ sơ cho đến ngày nay đều có quyền tha hồ gọi ẩn-số-đáp-số đó là uyên nguyên, là suối nguồn vũ trụ, là Đạo, là điện quang, là ánh sáng, là Vua Trời, là Phạm Thiên, là Thượng Đế, là Ông Trời… là bất cứ một danh xưng tôn quý, vĩ đại, cao cả đến mức nào đều đúng với lòng tôn kính cao viễn tuyệt đối của từng người, từng nhóm, từng phái trong tập thể loài người.
Mỗi dân tộc, mỗi giống người, mỗi thời đại, mỗi hệ thống tôn giáo, mỗi cá nhân tin vào Thượng Đế đều có một khái niệm riêng về Thượng Đế của mình. Thượng Đế của đạo Ấn, đạo Hồi, đạo Do Thái, đạo Chúa, v.v… hay ông Trời của dân gian Việt Nam, thần Thái Dương của Nhật, ông Bụt trong cổ tích là những đấng Thượng Đế khác nhau. Ai cũng tự cho rằng, Thượng Đế mà mình tin tưởng mới chính là Thượng Đế “thật” làm chủ tể càn khôn và bao trùm tất cả. Còn “Thượng Đế” trong các hệ thống đức tin tôn giáo khác chỉ là những nhân vật phiếm thần thấp kém hơn Thượng Đế trong tôn giáo của mình.
Trong tác phẩm Khoa Học Lý Thú (The Joyful Science)[6], Friedrich Nietzsche, triết gia thời danh của thế kỷ 19, đã kể câu chuyện rằng, có một gã điên điên, khùng khùng vào một buổi sáng nọ chạy vào chợ la khóc và gào lên: “Tôi đang đi tìm Thượng Đế đây nè!” Đám đông hỏi lại gã rằng, thế gã thực sự không biết Thượng Đế đã đi đâu hay sao, gã nín khóc và đờ mặt ra ngơ ngác hỏi lại: “Thượng Đế đâu rồi nhỉ?” Đám đông trả lời: “Chúng ta, gồm cả tôi và anh nữa, đã giết chết Thượng Đế rồi, còn đâu!” Qua câu chuyện, phải chăng Nietzsche ngụ ý nói rằng Thượng Đế hiểu như một nhân vật nào đó trong đầu óc nhỏ bé của con người không hiện hữu, nên muốn kêu gọi con người phải tự mình giải thoát cho mình ra khỏi sự trói buộc hà khắc của thần quyền muốn nhốt cả bầu trời lồng lộng trong chiếc lồng nhỏ hẹp của tư duy giới hạn, một chiều.
Cho đến nay, chỉ có đạo Thiên Chúa La Mã là hình tượng hóa Thượng Đế qua hình ảnh con người. Đó là chân dung của Thượng Đế qua hình ảnh một ông lão phương phi, da trắng được thiên tài điêu khắc và hội họa Michelangelo minh họa trên trần nhà thờ Sistine ở tòa thánh La Mã. Những tôn giáo tin thờ Thượng Đế khác thì cho rằng Thượng Đế là một đấng vô hình vô ảnh không thể hình dung hay luận bàn được, mà chỉ có tin kính và thờ phụng.
Một số những nhân vật nổi tiếng trong thế giới phương Tây như Charles Darwin, Arthur Schopenhauer, Karl Marx, Sigmund Freud, Fryodor Dostoievsky, Jean-Paul Sartre, Albert Camus… cũng trực tiếp phủ nhận hay quay lưng hoặc có cái nhìn xa lạ với một hình tượng Thượng Đế đặt định theo nhãn quan của thế lực thần quyền kinh viện châu Âu.
Tóm lại, ai thấy được Thượng Đế trong tâm thức của mình thì phúc cho họ vì tin điều mình tin. Ai không thấy được Thượng Đế trong tâm thức của họ thì cũng phúc cho họ luôn vì họ tin điều mình không tin. Cả hai “tuýp” người thành thật với chính mình – tin điều mình tin hay tin điều mình không tin – đều đáng được trân trọng chúc phúc. Chỉ sợ những kẻ dối gạt chính mình và dối trá luôn với Thượng Đế mới đáng nghi ngại mà thôi.
Mỗi niềm tin, mỗi tôn giáo đều có khuynh hướng gọi tên, định nghĩa và giải thích một ngọn nguồn và cũng là nguồn cội mà con người từ đó khởi đầu và sau khi chết trở về lại là ở đâu, là cái gì, là ai, là làm sao, là khi nào… Trong sự im lặng của thế giới khách quan, dường như có một suối nguồn vũ trụ. Suối nguồn đó chỉ có thể cảm nhận bằng năng lực tâm linh, bằng đầu óc tưởng tượng, bằng niềm tín cẩn thiêng liêng bên ngoài lý tính. Đấy chính là tâm lý tôn giáo có ngay từ khi con người mới ra đời và phải đối diện với những hiện tượng thiên nhiên và siêu nhiên. Khi sự kế thừa của tri thức đạt đến một mức độ tinh vi và có tổ chức, thì niềm tin tâm linh cổ sơ biến thành tôn giáo. Đối diện với thiên nhiên khi khoan hòa, khi bão liệt với muôn vàn hình thức biểu hiện lập đi lập lại và kéo dài đến vô cùng, con người bỗng cảm thấy run sợ và yếu đuối khi nhìn lại từng cuộc đời giới hạn và ngắn ngủi của mình. Con người dựa vào nhau, nương tựa đời sống tâm linh với nhau để tìm về suối nguồn vũ trụ qua hình thức tôn giáo.
Việc bàn đến sự liên quan của thần thánh và con người đã xảy ra từ 9.000 năm trước trong kinh Vệ Đà của Ấn giáo và trong các thần thoại cổ Hy Lạp và La Mã. Nhưng hình ảnh một Thượng Đế mang hình ảnh con người hay con người mang hình ảnh Thượng Đế xuất hiện trong tín lý của đạo Hồi, đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa.
Bàn về Thượng Đế, sự đồng nhất hóa Danh và Đạo – mà theo Lão Tử thì hễ có cái này thì không có cái kia – hay tách bạch rạch ròi hai khái niệm này rất dễ đưa tới cực đoan. NHL viết:
Cái khuyết điểm lớn cho khái niệm “Thượng Đế” hay “Chúa Trời” trong các tôn giáo có nguồn gốc từ Do Thái giáo là sự nhân cách hóa và khách thể hóa tính thể này - một ý nghĩa về một tên gọi và biểu tượng thiếu sót và sai lạc vì nó bỏ quên “chiều sâu thượng đế” bên trong mỗi cá nhân. Hãy nhớ rằng trong Tân Ước, Chúa Jesus đã tuyên bố, “Một điều đã được viết rõ ràng trong luật đạo (Psalm của Do Thái giáo) mà ta muốn nói, ‘Các ngươi đều là thượng đế (gods)’” (John 10). Lịch sử của Thiên Chúa giáo là một quá trình lầm lẫn về ý nghĩa của Thượng Đế. Hãy đọc các bản dịch Tân Ước bằng Việt ngữ thì sẽ thấy được sự nhầm lẫn cơ bản này. Chúng ta không thể lấy cái sai lầm để đo lường chân lý được.
Ở đây không có thước đo sai lầm hay chân lý trong ý niệm thuần túy mà cần xác định thế đứng danh hay đạo (Lão); tướng hay tánh của pháp thế gian và pháp xuất thế gian (Phật) để nhìn về khái niệm Thượng Đế.
Khi nhận định như thế, NHL đã đứng trên khía cạnh triết học duy lý hơn là nhìn về tính mặc khải (không thể nghĩ bàn) trong ý hướng xác lập một sự tương tác giữa con người và đức tin Thượng Đế trong các tôn giáo vừa nói. Cả 3 tôn giáo Hồi, Do Thái và Thiên Chúa đều xác định sự hiện hữu của Thượng Đế bằng sự xác lập mối tương quan giữa đấng cứu rỗi (Thượng Đế) và kẻ được cứu rỗi (con người). Một ý trong Tân Ước mà NHL trích dẫn về lời Chúa Jesus “các ngươi đều là Thượng Đế” đã được nhà thần học Irenaeus xứ Lyon, sống vào thế kỷ thứ II, minh giải rằng: “Cha là Thiên Chúa, Con cũng là Thiên Chúa, vì bất cứ ai sinh ra từ Thiên Chúa là Thiên Chúa”. Hay như Justin Martyr so sánh: “Cũng gần giống như lúc chúng ta quan sát một ngọn lửa mới được lấy ra từ một ngọn lửa đang cháy đỏ, ngọn lửa mới tự tồn tại bên cạnh ngọn lửa gốc chẳng hề bị hao hụt hay mất đi một mảy may vì chia lửa. Cũng vậy, Thiên Chúa được sinh từ Cha là cha của muôn loài”. Sự xác định này có nghĩa là con người do Thượng Đế sinh ra nên mang bản thể của Thượng Đế chứ không thể nào con người là Thượng Đế. Cũng tương tự như thế, khe suối mang bản chất “nước” của đại dương chứ không thể nào là đại dương.
Ý niệm mà NHL gọi là “chiều sâu Thượng Đế” bên trong mỗi cá nhân cũng không khác Phật tánh trong mỗi sinh vật. Và nếu có chăng hiện tượng hay khái niệm “nhân cách hóa – khách thể hóa” Thượng Đế thì cũng chỉ là phương tiện hay “pháp môn” để khai mở tánh Thượng Đế, tánh Phật, tánh tâm linh, tánh thường tại có sẵn trong mỗi con người.
Phần 2:
THƯỢNG ĐẾ, TÁNH KHÔNG
Mỗi thực thể vật lý hay mỗi hệ thống tín lý có lịch sử tồn tại lâu dài, ít nhất cũng chứng tỏ được sức mạnh có thật qua thử thách của thời gian. Sức mạnh nội tại của một thực thể là một thực lực không đứng yên một chỗ để chống chọi với sự tàn phá từ bên trong lẫn bên ngoài mà phải quyền biến linh hoạt. Khả năng trường tồn không chỉ đơn phương chống lại sự phá hủy mà còn là khả năng tái tạo, xây dựng lại sau khi bị phá hủy.
Đạo Phật đã ra đời và tồn tại hơn 2500 năm; cũng đã trải qua bao biến đổi tồn vong, hưng phế dưới nhiều hình thái và hoàn cảnh khác nhau. Sự có mặt của đạo Phật thường được xem hay bị xem như một “biệt lệ” trong hệ thống tôn giáo nhân loại: Trong khi tất cả các tôn giáo khác đều dồn hết mọi phương tiện thế gian và sức mạnh tâm linh để tiến đến cái hiện hữu được kinh sách của họ xác quyết một cách rõ ràng, sừng sững như một cứu cánh sau cùng, thì ngược lại, đạo Phật tiến đến cái rỗng lặng (Tánh Không) như một chân lý giải thoát cùng tột. Các tôn giáo khác động thì Phật giáo tĩnh. Bên động hô hào tấn công chiếm lĩnh thì Phật giáo chủ trương an nhiên tự tại, nhìn rõ bản thể rỗng lặng của chính mình và đối vật để buông xả không dính mắc. Sự tĩnh mặc quán chiếu đầy tích cực bên trong này thường bị những đầu óc chật chội, đầy ắp những nguyên lý luận lý học phương Tây suy diễn một cách sai lầm và hời hợt là “tiêu cực”, là “phủ định” ý nghĩa sinh động của đời sống đang trôi chảy.
Trước khi đi vào trọng tâm của vấn đề, tưởng cũng cần nêu dẫn những giới hạn tất nhiên mà trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó khó tránh khỏi:
Phương tiện tương đối đang được sử dụng để bàn về những chân tính tuyệt đối như Thượng Đế và Tánh Không là ngôn ngữ. Trong khi đối với tinh thần truyền thừa của Phật giáo, ngôn ngữ được xem là phương tiện “hữu lậu” (lỏng lẻo, rơi vãi, không mô tả hết được bản chất đích thực) dễ gây ra nhiều hiểu lầm và biên kiến nhất. Một nghệ sĩ vận dụng ngôn ngữ thi ca tài hoa của dân tộc, đồng thời cũng là một thiền giả như cụ Nguyễn Du đã phải thú nhận sự bất lực của ngôn ngữ khi đọc kinh Kim Cương luận về Tánh Không:
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ
Chung tri: vô tự thị chân kinh.
Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mông lung ảo diệu như gần như xa
Thạch Đài đến đó hiểu ra:
Không lời không chữ mới là chân kinh (TKĐ)
Hai cột mốc ghi dấu ấn đậm nhất trong lịch sử Thiền tông Phật giáo Trung Quốc mà Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm hơn cả là sự xuất hiện của Sơ Tổ Đạt Ma và Lục Tổ Huệ Năng thì cả hai đều khẳng định sự bất lực của ngôn ngữ: “Không dùng kinh văn. Ở ngoài chữ nghĩa. Thẳng tới chân tâm. Thấy tánh thành Phật.”
Trong khi đó, tất cả các hệ thống tôn giáo khác đều cần một đấng thần linh cao cả nhất như Thượng Đế, Vua Trời, đấng Toàn Năng, thần Tối Cao… cùng với một pho Thánh Kinh, một nhà Tiên Tri và thường khi có thêm phép lạ. Đạo Phật phủ nhận một nguyên nhân đầu tiên sáng tạo ra muôn vật và hệ luận tất nhiên là không hề có một đấng thần linh uyên nguyên và chủ tể nào đứng ra sáng tạo muôn vật, muôn loài như thế.
Bởi vậy, trong sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh, đạo Phật không hướng lên trên, không vọng ra ngoài cầu xin ơn cứu rỗi của một tha lực đầy quyền năng hay tối thượng nào cả, mà chủ trương quay vào bên trong để tìm tòi, soi rọi, nhận ra và tiếp cận với “đấng” cao cả nhất nằm trong chính mình: Đó là chân tâm, là Phật tánh, là bản lai diện mục, là tự tánh thường hằng, là thật tánh tuyệt đối… hay nói cho đơn giản hơn là sự hiểu biết rạch ròi về sự thật. Đó chính là cái sự thật tuyệt đối của mỗi con người mà mọi cá thể chúng sinh và vạn vật nói chung đều có sẵn từ cội nguồn của sự hiện hữu trong dòng sống trôi chảy triền miên từ điểm không-có-khởi-đầu đến điểm không-có-kết-thúc. Đấy không phải là một sự phủ định theo cái hiểu máy móc đời thường mà là một sự minh định, một sự xác tín từ trạng thái “ngỡ như là” của giả tướng để tìm đến bản thể “thực là”của thật tánh nơi mọi loài và mọi vật.
Và, đây cũng chính là điểm then chốt cho những người muốn xây dựng luận cứ cho rằng, đạo Phật không phải là một tôn giáo mà là một hệ thống triết lý vì 4 lý do: (1) đức Phật không phải là một đấng thần linh và đạo Phật không tin vào một Thượng Đế; (2) đạo Phật giúp con người giác ngộ (enlightment) chứ không phải là cứu rỗi (salvation); (3) đạo Phật chủ trương vô ngã (nonself) và phủ nhận sự hiện hữu của linh hồn bất biến, thường tại; (4) đạo Phật không chinh phục và thuyết phục người theo bằng bùa chú, tín điều hay phép lạ.[7]
Nơi đây, cũng nên dừng lại một chút để nhìn về đạo Phật như một tôn giáo.
Trong chánh niệm Tánh Không và duyên khởi, lý nhà Phật tin vào nguồn năng lượng vô biên của hợp duyên. Đó là nguồn năng lượng do sự kết tập qua nhiều đời nhiều kiếp mà thành. Đó chính là “nhiên liệu” kích hoạt động cơ của mọi hành động tạo nghiệp, hành nghiệp hay giải nghiệp. Với những bậc đã tu chứng từ vô thủy thì nguồn năng lượng lành không đong đếm nổi. Đó là cái “suối nguồn nhiên liệu tâm linh” cảm ứng khắp mọi thời, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Chư Phật và chư Bồ-tát là hiện thân của kho năng lượng lành. Khi có người thành tâm cầu xin, tức là “giải mã” để mở khóa cho nguồn năng lượng lành tuôn vào nơi đang cạn kiệt. Ví như lửa, điện, nước, sóng từ trường... có sẵn thường trực khắp nơi nhưng chỉ xuất hiện thành mây, mưa, sấm, chớp, hút, đẩy... khi có một điều kiện hợp duyên nào đó đưa tới. Đức Phật thường nhắc đến hằng hà sa số chư Phật và chư Bồ-tát trong ba nghìn thế giới. Do vậy, đạo Phật là một tôn giáo “hơn cả tôn giáo” với kho năng lượng lành phong phú không thể nghĩ bàn theo tính cách đời thường. Sự giao hưởng tâm linh giữa người thường và đối thể ẩn chứa năng lượng lành (thường hiểu như thánh thần) hoàn toàn không vắng bóng trong đạo Phật.
Trong sinh hoạt văn hóa toàn cầu, cho đến đầu thế kỷ 20, các hệ thống thần học phương Tây vẫn có khuynh hướng chủ động và chủ quan làm “phán quan” trong việc định nghĩa những khái niệm nhân văn theo những tiêu chuẩn và hệ thống giá trị truyền thống của chính họ. Đặc biệt là khái niệm về Thượng Đế và tôn giáo. Những ý niệm nào không vừa vặn với định nghĩa theo thước, tấc, phân, ly của họ đều bị coi là… dị giáo, là ngoại đạo cần phải bị loại trừ.
Nếu khái niệm về Thượng Đế mang ý nghĩa như là sự trả lời cho một câu hỏi đã có từ khi loài người sinh ra trên trái đất này, rằng: “Ai/nguyên nhân/năng lực/vị thế... Đầu tiên sinh ra vũ trụ và vạn vật, con người; và, con người sẽ biến mất như cát bụi hay còn tồn tại dưới một dạng thức nào khác sau khi chết, thân xác tan rã, thời gian trôi qua...?” thì Phật giáo cũng có một “Thượng Đế” riêng. Đó là vạn vật đều không có một tự tánh riêng thường hằng bất biến (Tánh Không). Nhưng khi những vật không có tự tánh đó gặp nhau và hợp lại với nhau trong những điều kiện nào đó thì sẽ tạo ra một hợp thể mới (Duyên Khởi). Tất cả đều quay theo vòng sinh diệt của quá trình thành, trụ, hoại, không từ vô thủy đến vô chung. Con người cũng như mọi loài có sinh có tử đều tồn tại dưới một dạng năng lượng “chủng tử” và biến hiện không ngừng trong dòng sinh diệt đó. Như thế, Thượng Đế của đạo Phật (nếu cần phải gọi theo ngôn ngữ quy ước của lý tính phương Tây) chính là Duyên Khởi. Vũ trụ, vạn vật được tạo nên hay hủy diệt là do duyên khởi và duyên hợp hay duyên tan qua vô số hình tướng hợp thể giả tạm, tuyệt đối không có tự tánh thường hằng bất biến. Mahatma Gandhi, người tin vào Thượng Đế Ấn Độ giáo từng nhận định rằng: “Đạo Phật không phủ nhận Thượng Đế nhưng định nghĩa Thượng Đế theo cách riêng của mình.” Nhà vật lý lừng lẫy nhất thời hiện đại, giáo sư Stephen Hawking, qua tác phẩm hàn lâm khoa học Sự Tạo Tác Vĩ Đại (The Grand Design) vừa xuất bản đã làm chấn động “tư tưởng sáng thế” toàn cầu khi xác định rằng, không có một đấng uyên nguyên nào đứng ra sáng tạo vũ trụ cả. Toàn thể vũ trụ được sáng tạo ra từ những thành tố không mang tính chất tiền định. Vô hình chung, Hawking và đạo Phật gặp nhau vừa vặn trong cuộc hành trình của tư tưởng khoa học nhân loại dài hơn 25 thế kỷ!
Trần Kiêm Đoàn(còn tiếp)
[Tập san Pháp Luân - số 79, tr16, 2011]