Trang 2 / 2
Khi phụ vương đức Phật, vua Tịnh-phạn băng hà, Di mẫu Mahāpajapati cùng năm trăm vị vương nữ đi đến thành Ca-tỳ-la-vệ nơi đức Phật đang an trú để thỉnh Phật cho phép mình gia nhập Tăng đoàn (Saṅga). Bấy giờ, đức Phật đã trả lời, “Đừng hỏi như thế”. Di mẫu ba lần thưa thỉnh và mỗi một lần đức Phật chỉ dạy rằng, “Đừng hỏi như thế.” Lúc đó, không một ai biết Ngài đang nghĩ gì và không ai hiểu vì sao Ngài lại từ chối lời thỉnh nguyện này. Tuy nhiên, lý do mà đức Phật chưa quyết cho Bà gia nhập Tăng đoàn, theo một số người giải thích, vì đức Phật không muốn Tăng đoàn có nữ nhân. Vì vậy, một số người khác lại cho rằng, việc Ni đoàn bị mai một ở Ấn Độ khoảng một ngàn năm sau, không cần phải đặt ra. Có những người khác ngang nhiên minh chứng là Ni đoàn bất khả phục hồi dựa trên các bản văn mà họ dẫn ra, còn vấn đề nghiên cứu của chúng ta về sự phát triển trên mặt lịch sử của giới pháp này cần được quán thông hơn nữa trên mặt văn liệu và nhằm minh định rằng nó có thể phục hồi.
Đức Phật bộ hành du hóa rất nhiều ngày từ thành Ca-tỳ-la-vệ đến Tỳ-xá-ly. Cũng vào thời điểm này, Mahāpajapati đã tự mình xuống tóc, khoác Ni bào, và năm trăm vị vương nữ cũng thực hiện y như thế, rồi cùng bà đi đến Tỳ-xá-ly, sự quyết tâm của người phụ nữ nói lên là mình phải được thọ giới và phải theo đức Phật, tức là nguyện được giải thoát vậy. Có lần ở đó, bà ngồi cạnh đại môn dẫn vào tinh-xá Kỳ viên, đôi chân sưng phồng và rướm máu vì cuộc hành trình cầu Phật gian khó. A-nan, em họ và là thị giả Phật, chứng kiến hội chúng này và biết được vấn đề của họ trình bày. Rồi Ngài đại diện họ, đến bạch Phật rằng, “Bạch Phật, Mahāpajapati, vừa là dưỡng mẫu, vừa vai dì Ngài đang ở ngoài kia, và chờ Ngài cho phép được tham gia Tăng đoàn.” Đức Phật lại dạy, “Chớ hỏi như vậy.” A-nan khéo léo gắng thỉnh thêm lần nữa, “Thưa Phật, xét cho cùng, bà ấy là dì và cũng là nhũ mẫu của Ngài. Bà đã nuôi Ngài bằng chính bầu sữa của mình.” Lần này, đức Phật vẫn từ chối. Khi đó, A-nan hỏi, “Bạch Phật, dám hỏi có phải vì nữ nhân không có tiềm năng giác ngộ như nam nhân, nên họ không được xuất gia tu Phật?” Phật dạy, “Này A-nan! Không phải thế, họ hoàn toàn có giác tính bình đẳng với nam giới để thành Phật.” Trên mặt phổ kiến, lời dạy này đã mở ra một chân trời mới trong lãnh vực tôn giáo, bởi vì, người ta không thể tìm thấy bất cứ tôn giáo nào trên thế giới này tuyên bố là, nam nữ Bình đẳng giác tính thành Phật.
Lúc bấy giờ, đức Phật đã dạy, nếu Mahāpajapati có thể lãnh thọ được các luật tắc tối yếu của Bát kính pháp hay Bát kính sư pháp, thì Ngài sẽ cho phép phụ nữ thụ giới gia nhập Tăng đoàn, vì những giới pháp này là tràng hoa để các Ni tự trang nghiêm mình. Mahāpajapati đồng ý lãnh thọ. Một trong các luật tắc đó về sau gây ra quá nhiều phiền phức cho các học giả phương Tây; theo luật này, một vị Ni cho dù đã thụ và đắc đại giới (thọ cụ túc giới) một trăm năm đi nữa, thì vị ấy vẫn phải đảnh lễ một vị Tăng vừa thọ giới, dù chỉ mới một ngày. Học xứ này, xem ra cứ mãi đàn áp những vị Ni, tuy nhiên không có cách nào xem xét khác hơn. Luật tạng kể lại chi tiết câu chuyện sáu Tăng sĩ (lục quần Tỳ-kheo) cho các Ni xem đùi mình. Khi đức Phật dạy về luật này, Ngài chế thêm học xứ mới và dạy các Ni không phải đến thi lễ các vị Tăng như thế. Vậy thì, một Ni không nhất thiết phải đảnh lễ quá nhiều Tăng sĩ, ngoại trừ đối với vị nào đáng được tôn kính. Chúng ta cần có chánh kiến về mỗi một pháp Bát kính này, bởi vì, đức Phật luôn tạo ra các biệt lệ sau khi luật tắc chung đã được chế định.
Một luật đáng kể nhất trong Bát kính pháp là luật Học pháp nữ (Sīkkhamānā, thức-xoa-ma-na, theo từ nguyên Phạn văn, thì thuật ngữ này có nghĩa là nhận thức về học tập), tức chỉ cho các Sa-di-ni đang trong thời gian thử thách hai năm trước khi trở thành những vị Tỳ-kheo-ni. Luật này dạy rằng, sau khi một vị Sa-di-ni đang thời kỳ thử thách và đã học hai năm giới hạnh với một Tỳ-kheo-ni nào đó rồi, thì vị thầy này có trách nhiệm thụ đại giới hay Cụ túc giới cho học trò mình. Song, khi đức Phật truyền giới cho Mahāpajapati, bấy giờ không thấy có các Ni tập sự hay Sa-di-ni. Ngài đã trực tiếp trao giới cho bà ấy thành là Tỳ-kheo-ni. Vậy, chúng ta giải thích như thế nào về giới pháp Bát kính, mà một trong các giai vị của chúng là trước khi trở thành một Tỳ-kheo-ni, một người nữ phải là một Thức-xoa-ma-na? Xét về mặt trình tự luật này, một Tăng sĩ người Anh cho tôi biết rằng, thầy tin là giới pháp Bát kính sư pháp, nó phát sinh về sau nhiều hơn và được các sư chuyên chép sử đưa lên hàng đầu. Trong trường hợp này, rõ ràng là Bát kính sư pháp đã đặt các Ni vào vị trí thấp hơn các Tăng sĩ, vậy, đối với nhà chép Luật, có lẽ vì lợi ích của chư Tăng, mà họ đã quy cho Phật về trật tự của chúng là thế.
Chắc có vài lý do mà Phật chưa cho phép nữ nhân nhập Tăng đoàn. Người ta đã có thể nói là vì lòng bi của Ngài dành cho các Ni, nhất là đối với di mẫu, bởi vì Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đã nhận phần thức ăn của mình và lãnh thọ của bố thí trong các ngôi làng. Quý Sư được nhận rất ít của cúng dường, đôi khi chỉ đúng một nhúm gạo, một mẩu bánh mì, hay một loại tịnh phẩm nào đó trong các tịnh phẩm bằng thực vật. Hãy tưởng tượng một nữ hoàng Mahāpajapati tuổi đã cao và năm trăm vương nữ đi khất thực thì sẽ như thế nào? Điều đó hầu như khó có thể xảy ra, vì họ đã từng trải qua đời sống tiện nghi như vậy trong cung đình. Hẳn là vì lòng bi, đức Phật không muốn họ phải đối mặt với sự gian nan như vậy.
Thêm vào đó, lúc bấy giờ, Ấn Độ chưa có những đại tùng lâm. Do vậy, các tu sĩ thường sống nếp sống cơ cực, trú dưới tàng cây hay trong hang động. Ai là người có thể đồng ý cho những nữ khất sĩ này du hành ở trong các trú xứ như thế? Vả lại, ai là người sẽ dạy cho họ? Có thể, họ được thọ đại giới, xuống tóc xuất gia và mặc pháp phục, nhưng, nếu họ không được truyền thụ một pháp tu nào, thì họ chỉ như là một kẻ du hành nào đó của Ấn Độ vào thời bấy giờ. Sau hết, nên xác định rằng, Tăng đoàn cần cử ra một ít Tăng tài (thánh Tăng-exellent monk) để dạy các Ni.
Hơn thế, đức Phật vừa bị đám đông thế tục chỉ trích là người phá hoại gia cang (family unit). Thừa nhận hội chúng này, tức là Ngài đã hoại đi linh hồn của hàng trăm tổ ấm. Sau đó, đức Phật biết rằng những người chồng của hội chúng nữ này cũng vừa mới gia nhập tăng đoàn. Như vậy, việc trao giới pháp cho nữ giới, Ngài đã không làm đổ vỡ các gia đình. Là bậc Vô Tránh, Thế gian giải, Ngài biết rõ hành xử như thế nào, do đó Ngài đã chấp nhận nữ nhân vào Tăng đoàn.
Cũng có khả năng là, trước khi Mahāpajapati thỉnh nguyện, Ngài chưa từng nghĩ đến việc phụ nữ gia nhập Tăng đoàn, bởi vì theo truyền thống Ấn Độ cổ đại, người phụ nữ vĩnh viễn gắn liền với đời sống gia đình. Vào lúc ấy, phụ nữ tự mình ly gia là điều không thể tưởng tượng nổi. Thậm chí đến giờ, ở Ấn Độ, hiếm khi phụ nữ xuất gia (leave the family). Song, đức Phật biết rằng, (tất cả chúng sanh có khả tính giác ngộ) vốn là một khả tính cho nhất thiết chúng sinh, nên Ngài mở ra cánh cửa học xứ cho nữ nhân thể nhập. Đây là một tiến trình cách mạng mà xu thế xã hội lúc bấy giờ được Ngài trao cho.
Như vậy, Ni đoàn được hình thành sau Tăng đoàn khoảng bảy hay tám năm gì đó. Theo tôi, sự kiện này là một trong các lý do mà Phật đặt Ni đoàn có địa vị thấp hơn Tăng đoàn. Sự chênh lệch vai vế như thế, nằm trong ý nghĩa trật tự giữa những cô em gái với những người anh cả trong một đại gia đình, chớ không nằm trong ý nghĩa giữa những ông chủ với các người hầu.
Luật đã ghi lại rằng, chỉ sau khi phụ nữ được phép gia nhập Tăng đoàn, thì đức Phật mới dạy, “do Ta công nhận việc này, nên thời kỳ Chánh pháp chỉ tồn tại năm trăm năm.” Theo tôi, câu nói này là câu nói, nói lên tâm trạng của những Tăng sĩ ở Sri Lanka, những vị đầu tiên đã ghi Luật thành văn sau sự kiện Phật nhập Niết-bàn, khoảng 400-450 năm. Hình như các Tăng sĩ này không đồng ý cho nữ nhân tham gia Tăng đoàn hay học xứ ấy. Một vài học giả phương Tây nghĩ rằng, câu nói như vậy, sau đó được quy cho đức Phật, chớ thật sự không phải do Ngài tuyên bố. Như ta thấy, hai mươi lăm thế kỷ đã trôi qua, Phật pháp chẳng những vẫn luôn phát dương quảng đại mà nó còn trải rộng ra đến cả phương Tây. Lời cảnh báo Chánh Pháp chỉ tồn tại năm trăm năm sau khi cho phép phụ nữ gia nhập Tăng đoàn chẳng còn mảy may giá trị.
Trong khi tra vấn về tính chính xác của vài đoạn kinh trong Phật điển, vấn đề ở đó là một tranh luận tinh tế, và như vậy, chúng ta phải hết sức cẩn trọng. Tức là, bằng cách nào chúng ta có thể chứng minh mọi thứ đã đi qua mất rồi được cho đúng là lời Phật dạy? Nói cách khác, có nguy hiểm chăng, khi cho rằng một vài đoạn Kinh nào đó là do người khác tự ý thêm vào?
Sự ngờ vực đến với chúng ta chỉ khi có một đoạn Kinh nào đó không tương ưng với giáo lý nòng cốt của đức Phật mà thôi. Nói chung, ta phải thừa nhận rằng, đối với việc bảo lưu và truyền văn bản, các tu sĩ Ấn Độ có được trí nhớ cực kỳ chính xác và họ tỏ ra hài lòng về điều này. Chư Tăng là những vị còn cẩn thận hơn nữa trong việc bảo lưu và truyền thừa giáo pháp. Trong đạo Cơ-đốc, khi viết sách Tứ Phúc Âm, họ là những nam nhân sai biệt và không cần bàn bạc với nhau, còn Tăng sĩ Phật giáo, những người nắm quyền giáo đoàn đã tổ chức những cuộc kiết tập để biên soạn và hệ thống hóa pháp Phật, suốt quá trình làm việc họ đều kiểm tra mỗi một thông tin của người khác. Đúng sau khi Phật diệt độ, Hội nghị đầu tiên được kiết tập và được năm trăm vị A-la-hán chứng minh. Khoảng một trăm năm sau sự kiện đó, Hội nghị lần thứ hai được kiết tập với bảy trăm Tăng sĩ, họ cùng nhau tuyên đọc pháp Phật theo bộ phận tri thức được thừa nhận.
Sự liên hệ giữa Tăng đoàn và Ni đoàn
Hẳn như chúng ta mong chờ, trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, quý Thầy đã đối xử với các nữ tu, nói chung, giống như cách mà những người đàn ông đối xử các phụ nữ. Khi phụ nữ được thụ giới, các tu sĩ gọi họ vào để lau chùi tu viện, tẩy rửa chén bát và chăn màn y áo. Các Phật tử tại gia để ý điều này và trình lên đức Phật, họ thưa rằng, những người phụ nữ ấy muốn được thọ giới là để tu học giáo pháp, nhưng giờ đây họ có quá ít thời gian dành cho việc này. Để trả lời, đức Phật đã chế định các quy tắc cho chư Tăng liên hệ đến việc ứng xử với các nữ tu như thế nào. Chẳng hạn, đức Phật chế định các điều giới luật ngăn cấm việc chư Tăng sai bảo các Tỳ-kheo-ni giặt hay xếp đặt quần áo khăn màn của họ v.v…
Đức Phật cũng bảo hộ các Ni khỏi phải bị lợi dụng bởi các vị Tăng phóng túng. Trong luật kể rằng, một buổi sáng, có một Trưởng lão Ni (tuổi 120) đã đi khất thực, bà ấy kinh hành một chặng đường dài từ tu viện đến các thôn làng. Bà nhận thức ăn và rồi trở về tu viện với bình bát có phẩm vật cúng dường của mình. Nơi cánh cổng dẫn vào tu viện đã chờ sẵn một tăng trẻ giải đãi không chịu đi vào làng khất thực. Để ý thấy bình bát của vị Tăng đang trống không, bà đã cúng dường thức ăn của mình cho vị ấy, thức ăn chỉ đủ cho một người, vì vậy, bà đã không có gì ăn cho sự tịnh dưỡng trong ngày này.
Ngày kế tiếp, vị Tăng trẻ lại chờ bà, bà lại sớt phần thức ăn của mình. Qua ngày thứ ba, bà lại vào thôn khất thực. Có một Phật tử trưởng giả ngồi xe ngựa đi qua gần Bà, Bà nhường đường và choáng váng ngả quỵ bất tỉnh. Vị trưởng giả dừng xe, đỡ Bà dậy và phát hiện là, Bà ngả quỵ là do ba ngày nay không ăn gì cả. Vị ấy bạch Phật về tình trạng này và phản đối rằng, một nữ tu không nên bị một Tăng sĩ đối xử bằng cách ấy. Do nguyên nhân này, đức Phật đã chế định điều luật ngăn cấm việc chư Tăng nhận thức ăn từ chư vị Tỳ-kheo-ni. Tất nhiên, chánh kiến về tinh thần của mỗi điều giới luật là việc cực kỳ quan trọng; điều này không có nghĩa là khi chư Ni có cúng phẩm sung túc, sẽ không chia sẻ với chư Tăng.
Vào thời đức Phật, chư Ni đều có những quyền hạn bình đẳng cũng như bình đẳng trong mọi cúng phẩm. Có một trường hợp, cả hai Ni và Tăng đoàn được dâng cúng tám bộ Y ở một trú xứ mà chỉ có một Ni và bốn Tăng, đức Phật đã trao bốn Y cho một Ni và bốn Y cho bốn Tăng, bởi vì chúng được dâng cúng cho cả hai, nên phải được chia đều, cho dù lúc này hai nhóm có sự chênh lệch số người. Bởi vì, theo khuynh hướng chung, cư sĩ tại gia thường hay cung thỉnh chư Tăng về nhà mình để thiết trai cúng dường hơn là cung thỉnh chư Ni (vì vậy, chư Ni nhận được rất ít những thỉnh mời của các cư sĩ thế gian), cho nên, tu viện khi nhận được bao nhiêu cúng phẩm, đức Phật đem phân đều cho hai đoàn. Ngài đã hộ trì chư Ni và đối xử minh bạch với hai bộ phận này.
Chú Thích:
Được sinh ở Thái Lan vào năm 1944, Tiến sĩ Chatsumarn Kabilsingh tốt nghiệp đại học Visva Bharati (Ấn Độ) với bằng triết học danh dự, sau đó bà tiếp tục nhận bằng Thạc Sĩ tôn giáo học ở đại học McMaster (Canada). Năm 1982, bà nhận bằng Tiến sĩ ở đại học Magadh (Ấn Độ). Từ năm 1973, bà là trợ giáo sư triết học và tôn giáo học. Hiện nay, bà là khoa trưởng chuyên ngành triết học và tôn giáo học ở đại học Thammasat, Bangkok. Bà đã cho ra mắt nhiều quyển sách và nhiều tác phẩm nghiên cứu có giá trị, tham dự các cuộc hội thảo quốc tế, là người chịu trách nhiệm cho tờ báo Yasodhara, và là cựu chủ tịch tổ chức phụ nữ Phật giáo quốc tế. Điều đặc biệt ở đây, tác giả bài viết này là một Ni sư có danh tiếng trong Ni đoàn Phật giáo các nước theo truyền thống Nguyên Thủy. Với sự thao thức làm sống lại tinh thần Ni đoàn Phật giáo ở các nơi trên thế giới, Ni sư đã bỏ công nghiên cứu đối chiếu các văn bản nhằm làm sáng tỏ những điểm còn uẩn khúc mà xưa nay một số học giả hiểu lầm khi nghiên cứu về truyền thống Ni đoàn Phật giáo. Từ cái nhìn đó, người viết xin mạn phép chuyển dịch bản văn ngõ hầu giới thiệu đến bạn đọc những điểm nổi bật mà ni sư đã nêu trong quá trình nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển Ni đoàn như thế nào.
Pháp Thưởng(còn nữa)
[Tập san Pháp Luân - số 51, tr.22, 2007]