Những Thách Thức Hiện Nay Của Phật Giáo Trung Quốc - Phần 1

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times



Tuy nhiên sau đó vào năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã thực hiện một chính sách cải tổ kinh tế và hiện đại hóa, mở cửa với thế giới - một chính sách đưa đến sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, giúp Trung Quốc phát triển thành một tiềm năng kinh tế mạnh mẽ của thế giới và sau đó gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2001. Trong suốt thời kỳ cải cách thị trường đó, Phật giáo đã có sự hồi sinh rõ rệt. Theo ước tính, cuối năm 2003, có hơn 13.000 chùa viện đã được đưa vào sinh hoạt trở lại. Hội Phật giáo Trung Quốc ước tính rằng hiện có khoảng 180.000 Tăng Ni ở Trung Quốc.

Trong số này, 120.000 thuộc các tổ chức Phật giáo Tây Tạng và hầu hết đều ở Tây Tạng, cũng như những khu vực thuộc Tây Tạng ở tỉnh Tứ Xuyên và Thanh Hải. Trung Quốc cũng có khoảng 8.000 Tăng sĩ theo Phật giáo Theravada, hầu hết sống ở miền Nam tỉnh Vân Nam. Phần lớn trong số 50.000 ngôi chùa là thuộc Phật giáo Đại thừa, rải khắp Trung Quốc. Trong số 34 trường Phật học thì có đến 26 trường thuộc truyền thống Phật giáo Đại thừa Trung Quốc, 6 trường thuộc các tổ chức Tây Tạng, và 2 trường thuộc truyền thống Theravada. Chính sách vô thần không khoan nhượng tôn giáo dường như đang dần được nới lỏng; các Phật tử đang đón nhận một thời kỳ phục hoạt và hồi sinh.

Trong khi hoàn cảnh chính trị mà những Phật tử Trung Quốc hứng chịu đã được nới lỏng đáng kể trong 20 năm qua, các hội Phật giáo Trung Quốc hiện giờ đang đối mặt với những thách thức khốc liệt do cải cách thị trường, hiện đại hóa và mở cửa kinh tế gây ra. Từ một cái nhìn từ bên ngoài, dường như các chùa viện bây giờ đang đóng chức năng như “những cỗ máy làm tiền”  cạnh tranh trong những lĩnh vực kinh tế quốc doanh và tư nhân nhằm tìm lấy lợi tức cần thiết để tiếp tục sự vận hành của chúng. Từ cái nhìn bên trong Phật giáo, cho thấy rằng nhiều Tăng Ni đã dành quá nhiều thời gian và năng lực vào việc kiếm tiền; dành quá ít thời gian, hoặc không có thời gian để tu học và giảng dạy Phật pháp. Theo Triệu Phác Sơ (赵朴初), cựu Chủ tịch Hội Phật giáo Trung Quốc:

“Một số người không kiên định với tôn giáo của họ, xem nhẹ giới luật và tu tập. Những người này đang săn đuổi tiền tài và danh vọng, sống một đời sống xa hoa và đồi bại. Nếu điều này không được ngăn chặn, chắc chắn nó làm nguy hại đến tiền đồ Phật giáo”.

Trong suốt thời kỳ Cách mạng Văn hóa, các Tăng Ni đã kiên trì bảo vệ tôn giáo của mình, chống lại sự đàn áp thô bạo của chính quyền. Tuy vậy, ông Triệu cho rằng, động cơ kiếm tiền hiện nay có khả năng gây nên sự suy đồi và tổn hại mà nó sẽ kéo dài nhiều thế hệ.

Căn cứ vào chuỗi sự kiện được mô tả ở trên, Phật giáo Trung Quốc hiện đang đối mặt với 4 câu hỏi then chốt: (1) Phật giáo Trung Quốc đang đi về đâu? (2) Các Tăng Ni có thể đề kháng lại sự suy đồi do chủ nghĩa vật chất gây ra bằng cách nào? (3) Các Tăng Ni có thể bảo vệ sự thuần khiết và thiêng liêng của Phật giáo và duy trì các truyền thống của mình bằng cách nào? và (4) Các Tăng Ni có thể truyền bá giáo pháp của đức Phật và làm lợi ích xã hội bằng cách nào? Bài viết này giải thích bối cảnh và chức năng kinh tế thị trường ở Trung Quốc và sự tác động của nó vào Phật giáo Trung Quốc. Bài viết cũng khảo sát hướng phát triển của Phật giáo Trung Quốc và những giải pháp thực tế mà các Phật tử hiện đang thảo luận.

THỰC TRẠNG KINH TẾ CỦA CÁC CHÙA VIỆN Ở TRUNG QUỐC

Theo truyền thống, các chùa viện (ở Trung Quốc) có thu nhập từ bốn nguồn chính: (1) cho thuê đất; (2) cho thuê nhà và các bất động sản mà các tự viện sở hữu; (3) những thu nhập từ việc đáp ứng các nghi lễ tôn giáo và từ các lễ hội, cũng như thuyết pháp và những phục vụ tôn giáo khác; và (4) cúng dường từ tín đồ. Thời trước, nguồn thu nhập chính của nhiều tổ chức Phật giáo không phải từ những địa điểm du lịch bề thế (hoành tráng), mà từ đất đai của họ. Nhưng Holmes Welch giải thích, bắt đầu từ thời điểm của những người chống tôn giáo đầu tiên vào năm 1922, cho thấy đã gia tăng khó khăn cho các chùa viện để thu tiền từ việc cho thuê mướn, khi những người thuê không muốn hoặc không thể trả. Ông kết luận rằng, tình trạng kinh tế của hầu hết các chùa viện trong nửa đầu thế kỷ 20 đã bị suy thoái một cách đáng kể khi những luật lệ của nhà Thanh ủng hộ những chủ đất chuyển sang ủng hộ những người thuê mướn dưới cải cách của thời kỳ cộng hòa. Điều này buộc các chùa viện tìm đến các đoàn thể cư sĩ Phật giáo để tìm nguồn thu thay thế.

Trong suốt thời kỳ cải cách ruộng đất của Đảng Cộng sản vào thập niên 50 thế kỷ trước, đất đai do các chùa viện sở hữu đều bị Nhà nước chiếm dụng. Đầu thập niên 80, khi nhà nước bắt đầu hoàn trả lại tài sản cho các tổ chức Phật giáo, trong thực tế có rất ít đất đai trước đó được hoàn trả. Trong hầu hết các trường hợp, chỉ những nhà cửa và những khu đất mà những ngôi nhà đó tọa lạc được hoàn trả. Điều này có nghĩa rằng những cơ hội hiện nay để các chùa viện thu lợi tức từ những tài sản thực của họ là rất giới hạn. Thêm nữa, do sự tác động một thời gian dài của những chính sách vô thần, những sinh hoạt Phật giáo tại gia đã suy yếu, và rất ít người công khai thừa nhận họ là Phật tử. Do đó, thu nhập từ những công việc như đáp ứng nghi lễ và thuyết pháp cũng bị giới hạn. Vấn đề thứ ba là giới Tăng sĩ ở Trung Quốc bị cấm ra đường khất thực, không giống như trường hợp ở các quốc gia Phật giáo Tích Lan và Thái Lan. Tin vui là ngày nay các Phật tử được quản lý những khu nhà và được phép thực hiện các dịch vụ; tin buồn là họ hầu như không có tiền để triển khai những thứ họ có. Do đó, ưu tiên cấp bách đối với hầu hết các chùa viện là tìm mọi cách tạo nguồn thu nhập. Các chùa viện như vậy đang cố gắng tự lập về mặt kinh tế và để giảm thiểu sự phụ thuộc vào sự kiểm soát của Nhà nước. Vấn đề là thực hiện điều đó bằng cách nào trong khi đồng thời duy trì được đặc tính riêng của Phật giáo.

Vào dịp kỷ niệm lần thứ 30 của Hội Phật giáo Trung Quốc, Triệu Phác Sơ, cựu Chủ tịch của Hội, chủ trương rằng các tự viện nên duy trì một sự cân bằng giữa “thực hành thiền và sản xuất nông nghiệp” để đẩy mạnh sự tự lập kinh tế. Ông đã định nghĩa việc thực hành thiền một cách bao quát, bao gồm nghiên cứu Phật học, tu học và giảng dạy; và hoạt động nông nghiệp là bất cứ hoạt động sản xuất hay phục vụ nào mà nó làm lợi ích cho xã hội. Sau Cách mạng Văn hóa, điều đó đã chứng minh là một phương cách hữu hiệu đối với các chùa viện để khôi phục lại theo hệ thống kinh tế mới. Các chùa viện như vậy đã phát triển hệ thống kinh tế của chính nó, được xem như là “kinh tế chùa viện”.

Hiện tại, hầu hết các chùa viện tọa lạc ở những thành phố lớn và những địa điểm du lịch chính đã trở thành những trung tâm dành cho các hoạt động du lịch. Có nhiều ngôi chùa như vậy, chẳng hạn như chùa Pháp Nguyên (法源寺) ở Bắc Kinh, có lợi thế của một ngàn năm lịch sử; những chùa khác như chùa Bao Công (包公寺) ở Tứ Xuyên và Cung điện Potala ở Tây Tạng, sở hữu những bộ sưu tập đồ sộ về những vật thể lịch sử quý giá. Còn có những địa điểm khác, chẳng hạn như những ngôi chùa tọa lạc trên núi Nga My (峨嵋山), có được phong cảnh tuyệt vời, lôi cuốn hàng triệu khách du lịch mỗi năm. Bên cạnh đó, còn có những ngôi chùa Tổ khác đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Phật giáo - ví dụ như chùa Tê/Thê Hà (栖霞寺) ở Nam Kinh, ngôi Tổ đường của Tam Luận tông. Tất cả những chùa viện này đều nổi tiếng thế giới và cuốn hút một lượng du khách đáng kể, cũng là những địa điểm tôn giáo quan trọng. Nhiều chùa viện tự chúng mở cửa đón du khách như là những địa điểm du lịch Phật giáo để tạo nên nguồn thu nhập và để hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương.

Tuy nhiên, song song với việc gia tăng lượng khách du lịch, các ngôi chùa đã bắt đầu lệ thuộc vào các dịch vụ kinh tế mà chúng được gọi là “những hoạt động công nghệ thứ ba”. Những hoạt động này bao gồm mở các nhà hàng chay, xây dựng các tòa nhà trưng bày, cửa hàng lưu niệm, trà quán, quầy thực phẩm, tiệm chụp hình, và thậm chí khách sạn. Kết quả là, thu nhập của các chùa viện đã gia tăng đều đặn mỗi năm từ khi những chính sách về tự do kinh tế và tôn giáo được thực thi. Ví dụ, vào năm 1985, chùa Tây Viên (西園寺) ở Tô Châu đã kiếm được hơn một triệu nhân dân tệ từ những hoạt động kinh tế, bao gồm nhà hàng chay, các quầy bán nhang đèn và một cửa hàng lưu niệm. Xin dẫn một trường hợp khác, tổng thu nhập của tu viện trên Cửu Hoa Sơn (九華山) ở tỉnh An Huy tăng từ dưới 100 ngàn nhân dân tệ vào năm 1979 lên đến gần 10 triệu nhân dân tệ vào năm 1992 (Thông tin từ Hội Phật giáo Trung Quốc, 2003).

Các chùa viện ở những khu vực xa xôi cũng tham gia vào công việc kiếm tiền. Điều được gọi là những hoạt động “công nghệ thứ ba” của họ bao gồm trồng cây và trồng rừng, in ấn và bán kinh sách, làm vườn, thành lập những phòng khám chữa bệnh, những cửa hàng tạp hóa, điều hành dịch vụ vận tải cùng các loại dịch vụ khác. Ví dụ chùa Trung Hoa (中华 寺) ở tỉnh Phúc Kiến, một ngôi chùa nhỏ với khoảng 50 vị Tăng. Khởi đầu vào năm 1981, chùa cho thuê ba ngàn mẫu đất cho việc trồng trọt, trong số đó 9 mẫu dành trồng ngũ cốc, 120 mẫu dành cho trồng cây, 6 mẫu trồng trà, và số còn lại trồng cây ăn trái. Đến năm 1985, chùa thu vào một nguồn lợi tức bao gồm 7.500kg ngũ cốc, 300kg trà và 15.000kg trái cây. Sau đó, chùa mở rộng thêm những hoạt động khác, bao gồm một phân xưởng may mặc, cửa hiệu, phòng khám chữa bệnh và một nhà máy gạch. Trong vòng một vài năm, chùa đã đạt được một doanh thu lớn. Nhờ đó, chùa xây được một Pháp đường (法堂) lớn, một bãi đậu xe, một phòng đọc kinh và các Tăng phòng, tất cả đều được trang bị hệ thống điện nước đầy đủ (Thông tin từ Hội Phật giáo Trung Quốc, 1993).

Sự phát triển kinh tế nhanh chóng này đã giúp cho các chùa viện không chỉ trở nên tự lập về mặt kinh tế, mà cũng khởi đầu cho những đề án phúc lợi xã hội ở một phạm vi rộng lớn. Ví dụ, các chùa viện ở tỉnh Quảng Đông đã chi hơn 118 triệu nhân dân tệ cho hoạt động phúc lợi xã hội giữa các năm 1993-2002. Nổi bật trong số các chùa viện là chùa Nam Phổ Đà (南普陀寺) ở Hạ Môn đã đóng góp một khoản tiền đồ sộ 17.426.315 nhân dân tệ cho những người nghèo khó giữa các năm 1994-2002 (Thông tin từ Hội Phật giáo Trung Quốc, 1993).

Sự phát đạt và tương đối độc lập kinh tế của các tự viện đã đóng góp nhiều cho sự phát triển của họ trên một phần tư thế kỷ qua. Tự lập kinh tế đã cải tiến đời sống Tăng lữ, giúp trùng tu các chùa viện và đóng góp phúc lợi chung cho xã hội Trung Quốc. Tuy nhiên, việc trở nên giàu có cũng mang theo những nguy cơ thách thức sự tồn vong của Phật giáo Trung Quốc.

TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀO PHẬT GIÁO

Những vấn đề liên quan đến sự tác động của kinh tế thị trường vào Phật giáo có thể được chia thành hai loại. Loại thứ nhất có thể gọi một cách khái quát là những vấn đề ngoại tại phát sinh khi những viên chức nhà nước - đặc biệt là những quan chức địa phương có chức vụ thấp - xâm phạm vào các quyền lợi của chùa. Các chùa viện giàu có trở thành nạn nhân, điều này thường xuyên xảy ra và tạo nên một vấn đề khá nghiêm trọng ở một vài khu vực. Loại thứ hai, nó liên quan đến những bất đồng nội tại phát sinh khi nhà nước trả lại tài sản cho các chùa theo chính sách tự do tôn giáo vào năm 1979.

Ví dụ trường hợp của chùa Tướng Quốc (相国寺) ở Khai Phong, tỉnh Hà Nam, một trong 10 ngôi chùa nổi tiếng nhất, mà được biết từ lâu như là “tuyệt vời nhất dưới bầu trời”. Chùa được xây dựng lần đầu vào năm 555 (TL), và đạt đến đỉnh điểm thịnh vượng của nó vào đời Bắc Tống (960-1126). Ngôi chùa bao gồm một khu đất rộng vào khoảng 34 mẫu, với 64 thiền đường và nhà bố-tát. Nó đã có mối liên giao với Nhật Bản từ rất sớm. Sau Cách mạng Văn hóa, Kim Diễm (金焰 1892-1991), Chủ tịch Hội Phật giáo tỉnh Hà Nam, đã khẩn khoản yêu cầu các cơ quan công quyền liên quan hãy giao lại cho Phật giáo. Tuy nhiên, những nỗ lực của ông đã bất thành. Vào năm 1991, ông qua đời ở tuổi 99 trong căn nhà của một nông dân nghèo.

Khi những phái đoàn Phật giáo Nhật Bản mong muốn viếng thăm chùa Đại Tướng Quốc vào năm 1988, một viên chức địa phương gửi một điện thư nói rằng: “Các vị được hoan nghênh thăm viếng chùa Tướng Quốc như là những người tham quan thông thường, mà không phải là những Phật tử hành hương, vì các hoạt động tôn giáo không được phép ở đó” (thông tin từ Hội Phật giáo Trung Quốc, 1988). Điều này tạo nên một ấn tượng xấu đối với nước ngoài, gây áp lực đối với những người nắm quyền. Sau đó, Triệu Phác Sơ, cựu Chủ tịch của Hội Phật giáo Trung Quốc, khẩn khoản yêu cầu Giang Trạch Dân, bấy giờ là Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, hãy trả lại vì sự phát triển của chùa Đại Tướng Quốc. Cuối cùng nó đã được trả lại cho Tăng đoàn vào năm 1992 (thông tin của Hội Phật giáo Trung Quốc, 1992). Lý do của việc trì hoãn hẳn liên quan đến số tiền khổng lồ từ việc bán vé vào cửa đem lại. Đó là lý do tại sao nhiều ngôi cổ tự, một số hơn một ngàn năm tuổi, bị biến thành những địa điểm du lịch hấp dẫn. Nhiều chùa viện ở Bắc Kinh nằm trong số này, chẳng hạn như chùa Giới Đài (戒台寺), chùa Ngọa Phật (臥佛寺) và chùa Bích Viên (碧園寺). Một số chùa vẫn chưa được trao trả lại cho các Phật tử, bất chấp sự thật rằng số lượng Phật tử ở Trung Quốc đang gia tăng nhanh chóng và các địa điểm dành cho các hoạt động Phật sự là rất ít và xa.

Tình huống nan giải khác xảy ra với một vài ngôi chùa mà chúng đã được trả lại cho các tổ chức Phật giáo. Trong những trường hợp này, một số chùa chiền vẫn còn được xem như là những địa điểm du lịch hấp dẫn và là những cỗ máy làm tiền. Một số cá nhân đang điều hành chùa chiền, chủ yếu vì mục đích kinh tế, gây nên những khó khăn cho các Phật tử thăm viếng vì nhu cầu tâm linh thực sự. Xin đưa ra một ví dụ từ kinh nghiệm bản thân. Vào tháng 6-1993, tôi viếng thăm một ngôi chùa tổ của Phật giáo Thiền, chùa Thiếu Lâm (少林寺), ở trên núi Tung. Tại chân núi Tung, ở một quầy vé, người ta yêu cầu tôi mua vé vào cửa. Tôi giải thích rằng tôi là một Tăng sĩ, nhưng điều đó không thành công. Một người đàn ông trông rất nóng nảy đã nói, “Ông phải trả tiền để vào cổng, không cần biết ông là ai. Đó là quy định”. Tôi xem điều này là một sự sỉ nhục khi một vị Tăng phải mua vé để quay trở về ngôi chùa Tổ của mình!

Một trường hợp khác là chùa Phổ Đà (普陀寺) ở tỉnh Chiết Giang, tọa lạc trên một ngọn núi nổi tiếng khác của Trung Quốc. Danh tiếng của nó bắt nguồn từ Phật giáo, và nó thực sự là một danh lam nổi tiếng khắp thế giới. Tuy nhiên, hầu hết thu nhập có được do việc bán vé vào cửa đều tuồn hết vào túi các quan chức chính quyền, những người quản lý khu vực danh lam. Những điều tương tự như vậy đang xảy ra nhiều nơi khác ở Trung Quốc.

Từ cái nhìn Phật giáo, có thể nói rằng sự phát triển kinh tế thiên lệch trong nhiều chùa viện đã đánh mất đi những đặc tính của Phật giáo. Theo tôi biết, các du khách nhận thấy rằng cho dù chùa viện được phát triển nhanh chóng, nhưng lại thiếu đi nét đặc trưng. Các chùa viện nói chung thường mở các nhà hàng chay, nhà nghỉ, cửa hàng lưu niệm và tiệm ăn uống giải khát; thậm chí một vài nơi còn mở nhà máy và điều hành công ty. Sự tác động lâu dài là kinh tế thị trường đang làm tổn hại nghiêm trọng bản chất tôn giáo của các chùa viện. Mỗi khi các chùa viện trở thành các cơ sở kinh doanh có quy mô lớn, thì rất khó cho họ rút ra khỏi. Và mỗi khi các chùa viện trở thành những nơi chốn chính yếu dành cho du lịch, nguy cơ là năng lực của các Tăng Ni chủ yếu phục vụ cho việc tiếp đón khách du lịch, không còn thời gian dành cho Tăng đoàn hay để tu tập.

Ngày càng nhiều người nước ngoài viếng thăm Trung Quốc, kết quả của những cải cách nội địa gần đây và sự mở cửa tăng dần của đất nước với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, nhiều người Trung Quốc bây giờ có đủ sức để đi du lịch, bởi vì tiêu chuẩn sống ở Trung Quốc đã được cải thiện một cách đáng kể. Nhiều người bây giờ dành thời gian trong suốt kỳ nghỉ của họ để viếng thăm các ngôi chùa và tổ đường ở những ngọn núi nổi tiếng. Ví dụ, Ngũ Đài Sơn (五台山), một ngọn núi Phật giáo nổi tiếng, đã thu hút nhiều du khách và người hành hương từ Trung Quốc và quốc tế. Lượng du khách từ Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan (viếng thăm Ngũ Đài Sơn) tăng từ 1.200 vào năm 1985 lên đến 1.600 vào năm 1986, và 1.900 vào năm 1987; lượng du khách nội địa cũng tăng theo tỉ lệ tương tự, từ 200.000 vào 1985 đến 240.000 vào 1986, và 330.000 vào 1987. Thời điểm vào năm 1987, có 160 vị Tăng được đưa đến chùa. Sau khi dành hết thời gian và năng lực để tiếp đón khách du lịch, họ không còn chút thời gian nào để tu học.

Phương Lập Thiên (方立天) đã nhận xét: Thứ nhất, mỗi khi các Tăng Ni tham gia vào những hoạt động kinh tế, điều này sẽ đưa đến những thay đổi khách quan lối sống của họ. Thứ hai, những khóa tu học Phật pháp đã suy giảm ở mức độ lớn và thường xuyên. Ví dụ, ở các chùa Tây Tạng, ở đó từng có hơn 30 sinh hoạt tu học mỗi năm, và mỗi lần kéo dài vào khoảng 7 ngày, thì bây giờ những sinh hoạt tu học đã bị giảm xuống còn vào khoảng hai hoặc ba lần mỗi năm, mỗi lần kéo dài 5 ngày. Cải tổ kinh tế ở Trung Quốc cũng tạo nên một tình huống tương tự đối với các Phật tử tại gia. Bận rộn với sản xuất kinh tế và thương mại, các Phật tử tại gia không còn thời gian tham gia vào những sinh hoạt Phật giáo và rồi niềm tin vào Đạo trở nên rất yếu.

Vấn đề nghiêm trọng nhất liên quan đến các Tăng Ni mà mục đích xuất gia của họ lại là thực hiện cúng đám để kiếm tiền. Ở một vài nơi, người ta gửi con cái vào chùa vì mục đích duy nhất là để học nghi lễ như một thứ kỹ năng kiếm tiền. Những cuộc điều tra không chính thức cho biết, một số Tăng sĩ trẻ xem việc nghiên cứu Phật học là hoang phí thời gian, trong khi xem việc học nghi lễ để cúng đám là thực tiễn! Điều này góp phần thêm cho vấn đề thiếu nhân lực đang tồn tại trong Phật giáo.

Việc quá nhấn mạnh vào phát triển kinh tế của các chùa viện đã tạo nên một sự tác động to lớn vào Phật giáo Trung Quốc. Một mặt, nó đã cải tiến được cơ sở hạ tầng và thu nhập cho các tự viện, cũng như gia tăng vị trí xã hội và giá trị của Tăng đoàn. Nhưng mặt khác, nó gây nên một sự suy thoái ở trong chính Phật giáo, bởi vì đã đưa chùa viện ra xa sự thực hành Phật pháp và hướng chúng đến công việc kinh doanh kiếm tiền thế tục. Đây là một thách thức nghiêm trọng mà các Phật tử Trung Quốc hiện nay đang đối mặt.

Thích Nguyên Hiệp (dịch)
[Tập san Pháp Luân - số 79, tr31, 2011]