Lời người viết: Tình cờ trong lúc lần giở lại những trang báo xưa, Bồ-đề Tân Thanh, số 96 ngày 25 tháng 7, 1953, tôi đọc được bài viết “Ngày Hội Tây với Đạo Phật” của tác giả Thế Hùng. Trong đó tác giả không chỉ giải thích câu nói của Phật lúc sinh ra mà còn đề cập đến một vấn đề khá nhạy cảm lúc ấy là “nhân quyền” khi quê hương còn chìm trong vòng đô hộ, cuộc chiến tranh giành độc lập còn đang diễn ra… Hôm nay, mạn phép lạm bàn đôi điều quanh bài viết trên.
Ngã tâm hay nhân quyền?
Theo tác giả thì Nhân quyền sinh ra đã có ngay bởi lẽ nó vốn có trước khi sinh ra. Thái tử Siddharta gọi nhân quyền ấy là Ngã tâm vì Người đã tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Thế Hùng cũng giải thích: “Theo chính nghĩa bộ Phật học đại từ điển và dẫn giải liễu nghĩa kinh Đại Niết-bàn, thì chữ “Ngã”có nghĩa là “Đại tự tại”. Tức là tuyệt đối tự do có tám quyền hành chủ tể, muốn làm gì cũng được. (Bát đại tự tại Ngã). Ngã độc tôn là Đại tự tại ngã, là Ngã pháp thân, là biến nhất thiết xứ (vairocana), là Ngã chân tâm thường trụ bất diệt… vì “ta sinh ra ta đã có ngay cái Ngã độc tôn, tất cả mọi người sinh ra đã bình đẳng, đã có ngay cái ngã độc tôn, chỉ vì mê muội, mà không biết rằng vốn sẵn có trong mình. Phật nói: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều là Phật sẽ thành.”
Tác giả suy từ đấy: “Phật tính của tôi, Phật tính của anh, Phật tính của chư Phật, Phật tính của các loài chúng sinh đều bình đẳng, to bằng cả hư không, đều có quyền được sống, được tự do, được độc lập, được mưu cầu hạnh phúc.” Vậy thì, cái nhân quyền nói ở trong Bản Tuyên ngôn ngày 4 tháng 7, năm 1776 của Mỹ và ngày 14 tháng 7, năm 1789 của Pháp, nhân quyền ấy, theo đạo Phật chỉ là cái Ngã độc tôn hay là cái Đại tự tại ngã của thái tử Siddharta đã tuyên bố, lúc sơ sinh... ta có thể nói nhân quyền ấy là Ngã quyền (quyền chủ tể của ta) hay là Ngã tâm, ngã tính, tự tâm, tự tính cũng được. Tác giả cũng đưa ra trường hợp có ai chất vấn sao tôi lại không biết cái tâm Bồ-đề ấy thì hãy đọc lại kinh Pháp hoa, phẩm Tín giải khi gã cùng tử kia không sao nhận ra bố mình vì đã xa nhà quá lâu, bỏ cha đi mất chứ nào phải là không có bố. Hay như gã say không hay mình có ngọc Mani trong tay áo. Thế nên, con người ta mới trầm luân trong bể đời đau khổ si mê. Từ đó tác giả suy diễn các dân tộc nhược tiểu không ai biết đến nhân quyền của mình, hoặc biết mà không giữ được, để cho kẻ khác xâm phạm, chiếm đoạt. Tác giả nhận xét khá chua xót “Chả thế mà trong lịch sử nhân loại mới chỉ có hai dân tộc là Pháp và Mỹ có khả năng giữ vững được Nhân quyền gần hai thế kỷ nay”. (Thật ra tác giả chưa nghiên cứu hết tình trạng kỳ thị chủng tộc của Mỹ hay tình trạng người nhập cư ở Pháp, cũng như chưa có điều kiện tìm hiểu các nước Bắc Âu, vốn tôn trọng nhân quyền hơn cả Mỹ và Pháp).
Chủ nghĩa nhân bản đi về đâu?
Chủ nghĩa nhân bản phương Tây vốn đề cao nhân quyền và tôn trọng tự do, bình đẳng trong các cơ hội dành cho con người. Tuy nhiên, không phải họ đã thực sự thành công trong thực tế và ngay cả trong khái niệm nhân bản cũng còn nhiều bất cập. Nói theo Trần Xuân Kiêm trong phần “Khai lộ” cho bản dịch “Thư về Nhân bản chủ nghĩa” của Martin Heidegger thì: “Chủ nghĩa nhân bản lấy con người (nhân) làm nền tảng (bản). Muốn thế, chủ nghĩa nhân bản phải lập ước trên một quan niệm về thể tính tính yếu (Wessen) của con người. Vấn đề nhân bản do đấy là vấn đề thể tính của con người. Thể tính ấy khi thành tựu viên mãn sẽ làm cho con người là con người trọn vẹn, con người nhân tính homo humanus, chứ không phải là con người vật tính homo animalis hay con người man dã homo barbarus”. Cũng theo Trần Xuân Kiêm thì: “tư tưởng truyền thống từ chủ nghĩa Hy Lạp hậu thời qua Descartes, Kant, Hegel,… và các triết gia Kitô giáo đã thất bại trong việc thiết định một chủ nghĩa nhân bản chính thực, vì quan niệm cốt yếu về thể tính con người hay nhân tính (humanitas) của họ đã dựa trên một giải thích sai lệch về nhiên giới, về lịch sử, về thế giới, về nền tảng của thế giới.” Theo Heidegger thì, “Nếu ta hiểu chủ nghĩa nhân bản nói chung là làm cho con người thành tự do vì nhân tính con người và làm cho con người khám phá ra phẩm giá của mình, thời chủ nghĩa nhân bản khác biệt nhau tùy quan niệm ta có về tự do và nhiên tính hay bản tính con người…” (Heidegger, Thư về Nhân bản chủ nghĩa).
Chúng ta sẽ không sa lầy vào các cuộc tranh cãi nhân quyền hay nhân bản ấy vì nói như tác giả Thế Hùng vào thời điểm những năm 1950 thì… “Cũng như bọn xâm lăng tàn nhẫn khéo dùng chính sách ngoại giao quỷ quyệt để lừa bịp kẻ ngu si bỏ mất Nhân quyền của mình chẳng dám nhận, đem thân làm nô lệ, làm tay sai, làm bù nhìn cho chúng thủ lợi rồi chúng lại thủ tiêu…” và kết luận: “Nếu ta nhìn nhận được Tự tính Bồ-đề của ta, tức là nắm vững được quyền Đại tự tại ngã, được Nhân quyền của ta thì mồi phú quý chẳng mê, uy vũ chẳng khuất phục được ta, ta chẳng phải là Trượng Phu, là Phật, là người dân của một nước hùng cường, thì là gì?”
Bài học nào cho hôm nay?
Cách đây hơn 55 năm, tác giả đã khéo léo mượn lời Phật dạy để khẳng định nhân quyền, trong bản Tuyên Ngôn ngày 4 tháng 7, năm 1776 khẳng định: “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, là những điều tôn quý trong mọi quyền tôn quý bất khả nhượng.” Còn nền Cộng hòa Pháp thì đề cao “Bình đẳng, Tự do, Bác ái.” (Nhưng không áp dụng đối với nhân dân các thuộc địa?!). Ngày nay, nhân quyền trên thế giới vẫn có những nơi bị xâm phạm và thậm chí chà đạp. Ta hãy nhìn sang Rwanda, Myanmar hay một số nước thuộc thế giới thứ ba. Tuy nhiên, quan điểm Phật giáo vẫn trước sau hơn hai ngàn năm như một. Hãy nghe đức Đạt-lai Lạt-ma phát biểu khi được phỏng vấn về trường hợp đất nước của Ngài: “… Chúng ta đều là những con người và đều có chung ước vọng bẩm sinh là xa lánh khổ đau và tìm kiếm hạnh phúc. Hơn thế nữa, con người đều có quyền được sinh ra để sống hạnh phúc và giải phóng mọi khổ đau.” Do vậy, Ngài không tán đồng dùng bạo động để giành lấy Nhân quyền dù là cho đất nước Tây Tạng của mình. “Tôi tin vào bản tánh của con người là thiên lương và từ ái. Thế nên vì lợi ích của chính chúng ta, phải khuyến khích bản tánh này và tạo cơ hội cho nó phát triển, nảy nở trong mỗi con người… Trong bất kỳ tình huống nào, một khi bạo động thắng thế, người ta sẽ không còn kiểm soát được tình cảm. Đây là một điều rất nguy hiểm và nó sẽ dẫn đến những thảm kịch. Đó là những gì đã xảy ra tại Bosnia hiện nay. Phương thức bạo động chỉ tạo nên những vấn nạn mới.”(Dalai Lama- Beyond Dogma)
Vậy là đã rõ, ngã tâm hay nhân quyền luôn phải được tôn bất kỳ ở đâu và lúc nào, dưới bất kỳ chế độ chính trị nào. Những vấn nạn xã hội và nguy cơ xung đột sẽ giảm đi rất nhiều nếu người ta biết tôn trọng quyền sống của con người. Ngay chính trên đất nước chúng ta, hãy nhìn lại những quyết sách kinh tế xã hội, nếu không xuất phát từ lợi ích căn bản của nhân dân chắc chắn sẽ thiếu sự đồng thuận và tiềm ẩn sự đổ vỡ từ niềm tin cho đến bản thân chính sách ấy. Chúng ta đã có nhiều bài học từ những phong trào “kinh tế mới”, và gần đây là “thu hẹp đất nông nghiệp vì công nghiệp hóa hay vì “du lịch sinh thái” hoặc vì phong trào mở sân golf. Hãy tôn trọng nhân quyền vì nó có từ khi con người chưa sinh ra. Phật đã nói từ ngàn xưa “Duy Ngã độc tôn”. Đấy vẫn còn là bài học cho hôm nay và cho cả mai sau.
Nguyên Cẩn
[Tập san Pháp Luân - số 53, tr.41, 2008]