Trang 2 / 2
Jack Kornfield là một trong những sáng lập viên của Insight Meditation Society tại Barre, Massachusetts.
Jack Kornfield là một trong những sáng lập viên của Insight Meditation Society tại Barre, Massachusetts. Ông là vị thầy sáng lập trung tâm Spirit Rock tại Woodacre, California. Hiện giờ ông đang sống và giảng dạy ở nơi đây. Ông Kornfield cũng đã viết nhiều quyển sách về thiền tập như là: Seeking the Heart of Wisdom, A Still Forest Pool, Stories of the Spirit, Stories of the Heart, trong đó có quyển National Bestseller: A Path with Heart và After the Ecstasy the Laundry.
Dưới đây là bài nghiên cứu và nói chuyện của ông về đề tài Thiền Phật giáo và Tâm thức học (Buddhist Meditation and Consciousness Research) mà ông đã trình bày tại Institute of Noetic Sciences, tại Sausalito, CA.
Nhận thấy bài nghiên cứu của ông có trình bày những nhận xét và chia sẻ một số kinh nghiệm thiền tập rất sâu sắc, nên tôi xin được gửi đến các anh chị. Hy vọng những kinh nghiệm thực tập của ông sẽ mang lại cho ta một niềm tin và soi sáng được một số vấn đề trong sự thực tập của chính mình. (Nguyễn Duy Nhiên)
Lời Giới Thiệu
Tôi xin được phép trình bày qua một chút về quá khứ và kinh nghiệm của tôi. Tôi tốt nghiệp đại học Dartmouth College với chứng chỉ chuyên môn về nghiên cứu Trung Hoa và Á châu, cùng với ngành triết học Phật giáo. Sau đại học, tôi gia nhập Peace Corps vào giữa thập niên 1960. Tôi xin được đi đến những quốc gia Phật giáo vì tôi muốn học hỏi thêm về Phật học. Tôi đến Thái Lan, và rồi xuất gia, tu học tại nhiều tu viện khác nhau ở Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ và Tích Lan. Sau khi trả y và trở lại Mỹ, tôi lái taxi ở Boston, đi làm trong một bệnh viện tâm thần, và vừa đi học thêm môn tâm lý học. Tôi tốt nghiệp bằng cao học ở đại học Antioch College, và bằng tiến sĩ chuyên môn về Tâm lý học Thực hành (Clinical Psychology). Luận án tiến sĩ của tôi có liên quan về những hiện tượng của thiền quán.
Tôi đã có dịp sống trong một tu viện ở giữa rừng sâu, mà sự tu tập được đặt trên ba yếu tố chủ yếu sau đây:
Yếu tố thứ nhất là một sự đơn giản tuyệt đối. Ta chỉ có một chiếc y và một bình bát. Mỗi sáng, bạn ôm bình bát xuống làng và mang về ăn bất cứ những gì mà người ta cúng dường bạn. Bạn sống trong một chòi nhỏ thô sơ ở giữa rừng, với vài quyển sách. Một phần của sự tu tập là giữ cho mình tĩnh lặng, và ý thức rằng ta không cần đến những thứ bình thường vây quanh ta hằng ngày, mà ta nghĩ rằng chúng sẽ mang đến cho mình hạnh phúc. Yếu tố thứ hai là một hình thức từ bỏ. Chúng tôi có 227 giới lớn và 500 luật nhỏ phải giữ. Có những giới luật dường như không còn thích hợp và có ý nghĩa nữa sau hơn hai ngàn năm, nhưng chủ đích là giữ cho ta thực tập chánh niệm. Ta phải ôm bình bát như thế này, ta phải đắp y như thế kia, mỗi hành động đều là một sự thực tập để phát triển chánh niệm. Và yếu tố thứ ba là thực tập thiền quán. Ta thực tập giữ cho mình tĩnh lặng rồi bắt đầu quan sát những hoạt động của tâm ý, nhất là những tâm ý nào mang ta ra khỏi giây phút hiện tại và giữ cho ta không có mặt trọn vẹn được với sự sống này.
Sau thời gian tu tập trong rừng, tôi đi đến một tu viện và học với một thiền sư Miến Điện nổi tiếng, Ngài tên là Mahasi Sayadaw. Trong tu viện này, đặc biệt là các thiền sinh chỉ chú tâm duy nhất vào sự thiền tập đơn độc cá nhân. Ngoài những chuyện lặt vặt khác, phần lớn tôi đã sống khoảng 13 hay 14 tháng trời một mình trong một căn phòng, thực tập ngồi thiền và đi kinh hành.
Mỗi sáng, tôi im lặng đi lấy thực phẩm chỉ một lần. Vào mỗi một hay hai ngày, tôi rời phòng đi gặp vị thầy của tôi khoảng 15 phút để trình pháp, nói về sự thực tập của mình. Ngoài những việc ấy thì tôi lại ngồi thiền một tiếng, đi kinh hành một tiếng, ngồi một tiếng, đi một tiếng, từ 18 đến 20 tiếng mỗi ngày. Nói chung thì sự thực tập chính là làm cho mình an tĩnh lại, chú ý đến bất cứ việc gì khởi lên và đặt tên cho nó. Sợ hãi, ham muốn, run sợ, toàn thân tan rã, cô đơn, hơi thở thanh nhẹ - ta chỉ đơn giản nhận diện và gọi tên nó, mỗi lúc một rõ rệt và chính xác hơn, khi chúng vừa mới khởi lên. Những tháng đầu thực tập sẽ là những cơn bão lớn của cảm xúc, lẽ dĩ nhiên là vậy, nhưng mục đích của sự thực tập là làm sao ta có thể bắt đầu nhìn vượt qua khỏi những hình tướng bên ngoài của những kinh nghiệm thuộc giác quan, để thấy được chân tướng của mọi hiện tượng trong cuộc đời.
Có thời gian tôi tu tập với một vị tu sĩ trong một tu viện, thực tập theo phương pháp thiền định tập trung vào bộ tim, như là tụng niệm, trì chú, quán tưởng, quán tâm từ… mỗi ngày từ sáng cho đến khuya. Tôi sẽ trình bày thêm về kinh nghiệm này sau.
Ở một tu viện khác, tôi thực tập về một phương pháp quán chiếu, có nghĩa là thay đổi tiến trình nhận thức và suy nghĩ của mình, như là cứ tự hỏi mình, lặp đi lặp lại câu hỏi ấy để quán chiếu. Nói chung thì tôi đã có dịp thực tập qua nhiều pháp môn khác nhau, và tôi trình bày tuy ngắn gọn, nhưng tôi nghĩ nó có thể giúp quý vị hiểu hơn về những gì tôi sắp chia sẻ.
Kinh Nghiệm Trong Một Khóa Tu Thiền Quán
Tôi xin được trình bày đến quý vị về kinh nghiệm của ba tháng thiền quán Vipassana, cũng như nêu lên một số vấn đề cho những bạn nào thích tìm hiểu, nghiên cứu về thiền quán. Thường thì mỗi khóa tu ba tháng như vậy có khoảng chừng một trăm người tham dự. Tất cả cùng phát nguyện giữ thinh lặng trong vòng ba tháng – chỉ được phép nói chuyện với vị thầy mỗi ngày khoảng 10 – 15 phút trong giờ trình Pháp. Các thiền sinh tinh tấn thực hành thiền tập: ngồi thiền một tiếng, đi kinh hành một tiếng, ngồi một tiếng, lại đi một tiếng, và cứ tiếp tục như vậy, mỗi ngày từ khi thức dậy lúc 5 giờ sáng, cho đến khi đi ngủ vào lúc 10 giờ tối, hoặc có khi là nửa đêm.
Thiền sinh chỉ nghỉ vào giờ ăn trong chánh niệm, cũng như lúc tắm rửa, mọi công việc đều được làm với một ý thức rõ ràng suốt trong ngày. Và việc gì sẽ xảy ra khi người ta thực tập như thế? Đầu tiên sẽ có đủ những kinh nghiệm rất sâu sắc xảy ra trong thân, và đôi khi, là những trường hợp chữa lành bệnh rất kỳ diệu.
Khi ta ngồi giờ này sang giờ khác và thật sự chú ý đến những gì xảy ra trong cơ thể của mình, thân ta sẽ bắt đầu thư giãn và mở ra. Và những chuyển hóa sâu sắc nhất sẽ tự nhiên xảy ra mà không cần ta phải làm gì hết, chỉ đơn giản chú ý đến tiến trình của nó. Tôi đã từng thực hành nhiều phương pháp, cách thức trị liệu cơ thể khác nhau, nhưng chưa có phương cách nào lại có thể so sánh với cái năng lượng chuyển hóa của thiền quán, phát xuất từ bên trong, khi ta ngồi trong chánh niệm liên tục nhiều ngày như vậy. Sẽ có một sự tháo gỡ những gút mắt trong thân xảy ra. Sẽ có những động tác cơ thể tự nhiên phát khởi, có những trường hợp thiền sinh tự nhiên uốn thân vào những tư thế du già đặc biệt. Có người cảm thấy như có lửa hay sự lạnh buốt di chuyển trong thân. Những trạng thái ấy thường được các thiền sinh diễn tả như là những luồng năng lượng của các luân-xa theo Ấn độ giáo, hoặc như là những đường kim châm cứu. Và chính những phương pháp của các vị như Jon Kabat-Zinn, Joan Borysenko và Stephen Levine cũng đã đặt nền tảng trên nguyên lý rằng thiền chánh niệm có thể làm khơi động một năng lượng trị liệu rất sâu sắc. Giáo sư Herbert Benson của đại học Harvard cũng đã thử nghiệm trên các vị sư Tây Tạng, cho thấy rằng các vị ấy có thể dùng thiền định để khiến cơ thể phát ra một nhiệt lực rất mạnh, điều này cho ta thấy chúng có thể kiểm chứng được.
Và cũng có một sự bùng vỡ trong lãnh vực cảm xúc xảy ra. Chúng có thể là những cơn bão của hạnh phúc, ưu sầu, cô đơn, sợ hãi, hoặc hỷ lạc… trôi ngang qua ta biến đổi như thời tiết, và cũng có thể chúng ở lại ngay trong thân ta một thời gian. Có một phương pháp giúp ta nhận diện và tiếp xúc với những cảm giác ấy, những ký ức và cảm xúc trong thân, danh từ Phật học gọi là các tâm hành (samskaras), ở những nơi khác nhau trong thân mình. Trong thiền quán, ta có thể chọn một nơi nào có nhiều vấn đề trong thân, và đặt sự chú ý của mình vào nơi đó trong một thời gian.
Khi sự chú ý của ta kiên trì đúng mức, nó sẽ dần dà khai mở được hết những ký ức, hình ảnh và ý niệm mà nó hằng ôm giữ chặt ở đó. Và cuối cùng, tất cả những gút mắt ấy trong thân sẽ được tháo gỡ và cởi mở ra hết. Chúng có thể là những gì mà bạn đã hằng mang giữ trong bạn suốt đời mình, nếu không nói là nhiều kiếp trước nữa. Và sự thực tập này cũng khơi lên một số vấn đề khá thú vị khác nữa.
Một Vài Vấn Đề Thú Vị
Trong những khóa tu, một điều kiện giúp cho những sự khai mở này có thể xảy ra được là một môi trường nghiêm túc và thích hợp. Môi trường ấy giúp tạo nên một hoàn cảnh, một không gian an toàn cho một sự khai mở sâu thẳm. Điều ấy rất quan trọng, những không gian nghiêm túc trong những khóa tu nhất thiết cần phải được ghi nhận và duy trì.
Và thường thường, các thiền sinh cũng có thêm những kinh nghiệm kế tiếp sau đây, mà tôi gọi là lịch sử cá nhân (personal history). Nhiều người có những kinh nghiệm về quá khứ của mình rất là sâu xa. Ví dụ, có người khi vào gặp tôi để trình pháp họ nói rằng, “Hôm nay, đến giờ ăn trưa tôi đi xuống phòng ăn. Trong khi nhai đột nhiên tôi thấy mình trở lại thành một đứa bé một tuổi.
Tôi thấy mình đang ngồi đó cầm chiếc muỗng và đập mạnh xuống bàn.” Trong thiền quán, những hình ảnh hoặc ý niệm quan trọng về những cảm nhận của ta đối với chính mình hoặc người khác, chúng sẽ khởi lên. Như tôi đã trình bày, các thiền sinh thường hay có những kinh nghiệm về ký ức thời ấu thơ của mình, ngay cả trước khi biết nói, họ thấy rất rõ được cơ thể của mình cảm xúc như thế nào trong những tháng đầu đời, những bước chân chập chững tập đi có cảm giác ra sao, những mùi vị của món ăn đầu tiên. Và trong thời gian trở về quá khứ này, sẽ có những vấn đề khó khăn, những nội kết mà chúng ta đã vô ý thức ôm giữ nó trong thân, trong tâm và tình cảm của mình từ bấy lâu nay. Chúng sẽ tự nhiên sàng lọc lại, khởi lên và muốn được ghi nhận. Và có một câu hỏi được đặt ra ở đây mà tôi nghĩ chúng ta cần nên tìm hiểu thêm. Chúng ta có thể tin tưởng rằng mọi việc sẽ được khai mở một cách có lớp lang và thứ tự chăng? Chúng ta có cần phải trực tiếp hướng dẫn những cảm xúc ấy, hay ta để cho chúng khai mở tự nhiên và chỉ cần tạo một không gian và điều kiện thích hợp thôi là đủ rồi?
Sơ Định, Cánh Cửa Hạnh Phúc
Và cuối cùng, thiền sinh sẽ đi đến một kinh nghiệm gọi là sơ định hay là định cận hành (access concentration). Sơ định là một cánh cửa mở rộng ra cho ta bước vào con đường giải thoát và hạnh phúc. Tâm ta lúc này đã được yên. Đến giai đoạn này, trong thân ta không còn một gút mắt hoặc đau đớn nào nữa hết, những cảm xúc mãnh liệt cũng giảm bớt đi, những tư tưởng thương, ghét, quá khứ, tương lai cũng từ từ chậm lại. Không còn những dính mắc nữa, tâm ta sẽ cảm thấy thật yên và hạnh phúc. Những tư tưởng vẫn sẽ tiếp tục khởi lên, nhưng ta không còn bị dính mắc và bị chúng lôi kéo nữa. Ta sẽ có khả năng theo dõi được những tư tưởng của mình khởi lên và rồi qua đi. Thật ra, bạn sẽ có thể cảm nhận được một cảm giác nhẹ trong thân trước khi có một tư tưởng khởi lên, cũng giống như một bong bóng nước trồi lên mặt. Bạn có thể biết rằng có một tiến trình tư tưởng đang phát khởi từ phần tiềm thức (unconsciousness) và đi qua phần ý thức (consciousness). Lúc này, bạn có đủ sự tĩnh lặng để thấy được tiến trình của nó, thay vì bị dính mắc vào phần nội dung của nó.
Giai đoạn này gọi là sơ định, hay là cận hành định. Đến giai đoạn này bạn sẽ có được một niềm tin rất lớn trên con đường tu tập, vì bạn có thể nhìn và tiếp xúc được với mọi sự việc một cách mới mẻ, như chưa từng có bao giờ.
Nguyễn Duy Nhiên, phỏng dịch (còn tiếp).
[Tập san Pháp Luân - số 25, tr.32, 2006]
Thiền Phật giáo và tâm thức học
Typography
- Smaller Small Medium Big Bigger
- Default Helvetica Segoe Georgia Times
- Reading Mode