Thế nào là đại ý của Phật pháp?

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

(PLO) Thái thú hỏi: “Thế nào là đại ý của Phật pháp?” Thiền sư: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo”.

Nhiều người thường quan niệm rằng đạo nào cũng tốt, ai cũng khuyên răn con người ăn ở hiền lành, sống tốt với mình tức tốt với người, chưa tìm hiểu hay nghiên cứu sâu xa đã vội đồng hóa giáo lý này giống giáo lý kia, nhưng thực chất các phương diện thực hành lại không thể như thế. Quan niệm đạo đức về thiện ác của mỗi tôn giáo khác nhau, như quan niệm về thiện ác theo các nền văn hóa luân lý xã hội của nhiều nước, nhiều khu vực trên trái đất khác nhau hoàn toàn. Ví dụ như quan niệm về chữ hiếu, người phương Đông báo hiếu hoàn toàn khác xa với sự báo hiếu người phương Tây. Có một bộ tộc ở Châu Phi cho rằng, một người con sống có hiếu thảo là sau khi cha mẹ đến tuổi già bắt cha mẹ trèo lên cây và mình ở dưới rung cây để cha mẹ té xuống chết, đó là hiếu thảo với cha mẹ. Nhưng nhìn từ góc độ của những người sống ở các nước phương Đông thì người con có hành động như vậy rõ ràng đó là sự bất hiếu, không thể tha thứ. Theo quan niệm phương Đông, người con sống có hiếu, tức là phải phụng dưỡng cha mẹ lúc về già, sớm hầu tối nom chăm sóc không nên làm cho cha mẹ buồn, đau khổ hay có bất cứ một hành động nào đi ngược lại thói thường đạo lý mà xã hội đã ấn định như thế-một hành động trái ngược đạo lý như giết cha mẹ bằng cách rung cây như vậy là không thể chấp nhận. Việt Nam không đồng quan niệm rung cây theo kiểu báo hiếu như vậy. Do ảnh hưởng chữ hiếu của người phương Đông, ảnh hưởng nền văn hóa Phật giáo đã trên hai ngàn năm nên tinh thần hiếu thảo của người Việt Nam hiển bày rất rõ trong từng nếp sống, nếp suy nghĩ của mỗi người, cung cách ứng xử của mỗi người sống sao hiếu thuận mẹ cha. Nghĩa là một người con cần phải phụng dưỡng cha mẹ trên cả hai phương diện vật chất cũng như tinh thần-phụng dưỡng vật chất và phụng dưỡng đời sống tâm linh tinh thần để cha mẹ vui lòng. Trong quan điểm này, vấn đề về thiện ác của mỗi tôn giáo tồn tại trong một phong-hóa tuy có tính chất khác nhau, dù có giống nhau chút ít là khuyên người làm lành tránh dữ nhưng mục đích chung trên con đường cải thiện hướng cho con người tiến đến đỉnh thăng hoa của đời sống tâm linh, đạt được hạnh phúc an lạc thì hoàn toàn khác xa. Có đạt được điều đó hay không, có an lạc hạnh phúc hay không còn là điều mà con người sống cần phải biết, phải học và cần phải trải qua một quá trình thể nghiệm tu tập. Đối với Phật giáo, ngoài bỏ ác làm lành ra, người con Phật còn phải thanh lọc thân tâm để cho đời sống tự thân thanh tịnh, trong sạch và hằng giờ hằng phút không huân tập các chủng tử bất thiện đưa đến đau khổ.

Bỏ ác làm lành, hai điều này nói ra thì rất dễ nhưng không phải ai cũng làm được. Như đứa con nít ba tuổi đã được Bạch Cư Dị đưa ra cũng có thể học thuộc, nói thì dễ nhưng thực hành thì không phải dễ dàng chút nào, đó mới là điều mà đạo Phật chú ý đến. Làm sao biết rõ việc nào là làm lành, việc nào là làm ác. Vì vậy, vấn đề thiện ác thực chất rất khó phân định. Còn nếu cho rằng như thế này đúng hay như thế kia sai, điều đó chẳng qua là theo quan điểm luân lý của mỗi quốc độ trong mức độ tương đối mà thôi.

Có những điều mà ở thời điểm này, giai đoạn này, tôn giáo này, xã hội này cho là đúng, là điều lành, nhưng ở thời buổi khác, tôn giáo khác, xã hội khác cho là sai, là làm ác. Cho nên điều quan yếu của một người học Phật cần phải nắm vững và hiểu biết phân biệt rõ ràng hai lãnh vực thiện ác. Thiện ác nào thuộc lãnh vực đạo đức tôn giáo, thiện ác nào thuộc lãnh vực luân lý xã hội. Nhờ đó chúng ta có thể đánh giá được mức độ đúng sai theo chiều hướng: tôn giáo hay luân lý. Khi phân định được sự việc mà không phạm vào những sai lầm có thể đưa đến tranh cãi, thì dù là giá trị phổ quát hay khép kín đi chăng nữa chúng ta cũng có thể hiểu được trong khả năng chấp nhận giới hạn của chúng. Ở đây để đưa đến giải thoát thì vấn đề thiện ác của một luân lý xã hội nào đó, nếu phù hợp với đạo đức con người thì chúng ta có thể chấp nhận và xem chúng như là tiền đề để thực hiện hoài bảo giải thoát cho mọi người. Chỉ có làm lành chúng ta mới không thấy ray rứt lương tâm, không có đau khổ hay hối hận. Làm lành còn đem lại cho con người sự thảnh thơi an lạc, làm cho gia đình xã hội, bạn bè thân quen hạnh phúc, đất nước an bình, quốc gia thịnh vượng. Chỉ có làm lành mới đem lại hạnh phúc cho mình và cho chúng sanh. Chỉ có làm lành mới đem lại và tôn trọng sự sống của tất cả chúng sanh hay cộng đồng đang hiện hữu trên thế gian này.

Giáo lý đức Phật định nghĩa rất rõ về việc làm lành hay tránh dữ. Trong sách thường có dạy: “Thiện giả lợi dã”. Nghĩa là, người làm việc thiện là người luôn đem lại lợi lạc cho mình và cho người trong hiện tại và tương lai. Những việc làm mà không đem lại lợi mình và lợi người trong hiện tại và tương lai đều là việc ác. Làm một sự việc mà sự việc đó đem lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho mình trong hiện tại và tương lai nhưng lại đem đến sự đau khổ cho người khác thì vẫn là điều ác, hay ngược lại. Trong Kalama, đức Phật dạy cho các hoàng tử rằng: “Hành động gì có hại cho mình, có hại cho người, có hại cho cả hai, bị người chỉ trích, nếu chấp nhận và thực hiện sẽ đem lại tâm khổ sở, tâm ưu phiền, hành động như vậy là hành động bất thiện và chúng ta phải loại bỏ hành động ấy. Hành động gì mà không có hại cho mình, không có hại cho người, không có hại cho cả hai, được người trí tán thán, nếu chấp nhận và thực hiện sẽ đem lại tâm an lạc hoan hỷ. Hành động như vậy là hành động thiện và chúng ta phải thực hành”. Như vậy, vấn đề thiện hay ác của đạo Phật muốn thẩm định cần phải căn cứ vào hai tiêu chí hạnh phúc hay đau khổ của tự thân và tha nhân. Trong cuộc sống hiện tại nếu chúng ta thực thi những hành động không đem lại hạnh phúc cho chúng sanh thì những hành động đó gọi là ác. Còn những hành động nào đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh thì gọi là thiện. Đó là điều được đức Phật chỉ dạy trong suốt hành trình chuyển vận bánh xe Pháp, “Ngài ra đời vì lòng thương tưởng chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì hạnh phúc và an lạc cho chư thiên và loài người”. Cho nên sau khi Thành đạo, Ngài đã đem những gì mà mình chứng đạt, niềm  hạnh phúc an lạc đã đạt được trao truyền lại cho chúng sanh, ngõ hầu chúng sanh cùng sống chung trong một cảnh giới thật sự không có bóng dáng của phiền muộn khổ đau. Đã là người theo Phật, chúng ta không nên tự làm khổ mình, không nên tự làm khổ người, không tự làm khổ bất cứ một chúng sanh nào khác, vì khi tự làm khổ chúng sanh, tự làm khổ tha nhân tức là mình đã tự làm khổ mình. Nhờ vậy, chúng ta mới không đi lệch ra khỏi đạo lộ giải thoát. Chúng ta không chỉ giải thoát cho cá nhân mình mà còn giải thoát cho cả chúng sanh. Tôn trọng sự sống và bảo vệ sự sống của chúng sanh là thiện pháp. Ngược lại không tôn trọng và bảo vệ sự sống của các loài khác là ác pháp. Vì thế, giáo lý đạo Phật mới đưa ra các pháp môn, phân ra nhiều chương mục là tùy hợp với căn cơ của chúng sanh mà chỉ bày cho thích ứng. Làm lành tức là làm việc lành, hành động lành, tác ý việc lành. Việc lành này được xây dựng trên ba khía cạnh của thân khẩu ý: thân không làm ác, miệng không nói việc ác, tâm không nghĩ điều ác. Khi một người làm những việc như sát sanh, trộm cắp, tà dâm thì gọi là làm ác, khi một người nói dối để đem lại lợi lạc cho mình, làm tổn hại cho người, hay thỏa mãn tính vị kỷ tư kỷ cho mình đem lại chia rẽ cho người,… đều gọi là ác, thậm chí tâm khởi lên một niệm mà có yếu tố tham sân si chi phối đều gọi là ác cả; còn nếu thân không tạo sát đạo dâm, ý không khởi tham sân si, miệng không ỷ ngữ, lưỡng thiệt, vọng ngôn, ác khẩu thì gọi là “chư ác mạc tác”; lại có thể nói rằng, tiêu diệt các điều ác đã sanh, điều ác chưa sanh thì không cho phát khởi, nên gọi là “chư ác mạc tác”. Người làm được như vậy mới gọi là học Phật, giữ miệng, nhiếp ý, phòng thân chớ phạm. Đây là bước đầu của người học Phật pháp. Không phải “chư ác mạc tác” mà còn phải “chúng thiện phụng hành”, không những không sát sanh mà còn phóng sanh, không những không trộm cướp mà còn bố thí, không những không tà dâm mà còn phải sống phạm hạnh, không những đừng nói lời ác, nói hai lưỡi, nói dối, nói thêu dệt mà còn nói lời chân thật, nhu nhuyến hòa hợp…, không khởi tâm tham sân si mà còn phát tâm từ bi và trí tuệ, cũng như các điều thiện đã sanh làm cho tăng trưởng, các điều thiện chưa sanh làm cho sanh khởi. Những việc làm như vậy đều gọi là các việc thiện nên làm. Cho nên chúng ta có thể kết luận, làm thiện theo Phật giáo tức là không xâm phạm đến đời sống an lạc hạnh phúc của một cá nhân, không đem lại đau khổ cho một chúng sanh hay một cộng đồng nào khác, cũng như không đem lại đau khổ hay ray rứt cho lương tâm của chính mình, làm được như vậy thì chúng ta đang tiến triển theo chiều hướng thiện. Ngoài những điều đó ra, nếu chúng ta làm ngược lại thì chính bản thân chúng ta đang làm các điều ác.

Mặt khác, tu học là để chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện, hướng con người vào con đường luân lý tốt, đạo đức tốt, đem lại niềm an vui hạnh phúc cho cá nhân, ổn định cho gia đình và hòa bình cho xã hội. Người làm thiện sẽ hưởng phước báo sanh thiên, khi hết phước báo sẽ tái sanh lên cảnh giới an lành, không tái sanh vào những cõi dữ và còn được cơ hội để tu tập và sống thiện tiếp theo. Còn làm ác thì phải luân chuyển trong các cõi ác nghiệp. Làm thiện hay làm ác vẫn còn trong vòng đối đãi. Hai phạm trù này bị chi phối bởi vô minh và ái dục cho nên chưa thực sự là mục đích cứu cánh của đạo Phật. Làm thiện hay làm ác vẫn còn tái sanh trong lục đạo luân hồi, chưa thực sự giải thoát ra ngoài ba cõi. Mục đích của đạo Phật là vượt lên trên cả hai lãnh vực đối đãi thiện ác tức không nhiễm cả hai. Bởi ác nghiệp là do lòng ích kỷ lợi mình hại người, còn thiện nghiệp là một hình thức khác của ngã chấp lợi mình lợi người, tức là trong tâm luôn nghĩ có những lợi cho mình đã và đang làm. Vậy dù chúng ta có làm thiện tốt bao nhiêu đi nữa nhưng những điều thiện này nó là nhân trói buộc chúng ta trong ba đường lành, chưa giải thoát rốt ráo được. Vì thế, câu kệ thứ ba khẳng định lập trường tu học theo giáo lý đạo Phật, nghĩa là ngoài làm việc thiện dứt điều ác ra, chúng ta phải luôn luôn giữ thân lúc nào cũng trong sạch, tâm lúc nào cũng chánh niệm tỉnh giác, gạn lọc mọi cấu nhiễm của duyên trần, bằng cách không nghĩ thiện, không nghĩ ác, sống với cái tâm thanh tịnh của mình. Tức là cần phải làm với một tâm an nhiên tự tại, một tâm trong sạch, không còn phân biệt thiện ác, bỉ thử, ngã chấp hay pháp chấp.

Tự thanh lọc thân tâm thanh tịnh là giai đoạn vô cùng quan trọng trong Phật giáo, là mục đích đạo Phật cần đạt đến. Nếu chỉ dừng lại ở cấp độ thiện ác, thì con người vẫn còn trầm luân trong sanh tử. Do đó, muốn ra khỏi sanh tử phải vượt trên hai lãnh vực thiện ác, làm với một tâm ý luôn thanh tịnh không ô nhiễm. Tại sao như vậy? Bởi vì chúng sanh mỗi một việc làm phát khởi đều do tâm niệm chấp trước. Như khi ta bố thí hay làm việc từ thiện chẳng hạn, ta liền nghĩ rằng: ‘Ta là người bố thí, kia là kẻ nhận thí, hay ta là người làm từ thiện, chùa ta làm từ thiện, còn người kia là kẻ nhận của từ thiện’. Từ đó sanh ra oán ghét, phải trái, suy lường phân biệt, mà phân biệt oán ghét chính là những phiền não. Phiền não thì đem lại quả báo phiền não, chịu quả báo hữu lậu thì dù có tu hành thập thiện, làm lành đến đâu thì cũng không có kết quả an lạc, bởi vì tâm niệm lúc nào cũng chấp trước mà chưa thực hành được “tự tịnh kỳ ý”. Do vậy trong quá trình tu tập, người tu tập cần phải rèn luyện bằng cách huân tập các pháp lành, tâm niệm lành thì phiền não sẽ không có cơ hội tiến triển, dần dần sẽ tiêu trừ. Tiến lên tu tập các pháp môn trong tam tụ tịnh giới để phát sanh thiện căn. Một khi các điều thiện sanh khởi thì các điều ác không còn hạt giống để tăng trưởng và dần dần sẽ tiêu hoại. Nhờ thể đạt được như vậy, hành giả quán sát để thấy các pháp đương thể tức không, hữu lậu, vọng tưởng đều là những vọng duyên làm cho tâm trí bị mê mờ ô nhiễm, không sáng suốt, là những cấu bẩn che lấp tâm tánh chúng sanh không lúc nào được an lạc giải thoát. Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy các đệ tử rằng: “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, nghĩa là trong khi tu tập cần phải quán sát các tướng ngã, tướng pháp đều là hư vọng. Để liễu ngộ các pháp vốn không, thì không chấp trệ dính mắc vào các pháp, đó chính là đang huân tập giáo pháp vô lậu của chư Phật. Khi hiểu được như vậy, người học Phật sẽ hiểu rõ thâm ý của chư Phật, đại ý của Phật pháp.

Qua câu chuyện của Thiền sư Ô Sào đối đáp với Thi hào Bạch Cư Dị, chúng ta phần nào hiểu được thâm ý của Phật thật sâu xa. Bốn câu được nói ra tuy đơn sơ nhưng triết lý của nó hàm chứa cả Tam tạng thánh điển. Suốt cả cuộc đời của một người tu tập chưa chắc đã làm được. Làm thiện phải hiểu thiện là thế nào, làm ác thì phải hiểu ác ra sao, và mục đích của đạo Phật hướng đến là gì? Bốn câu “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo” này chính là nội dung cốt yếu của toàn bộ học thuyết đạo Phật. Nghĩa lý của chúng tuy đơn giản nhưng thật thâm sâu, cần phải nghiên cứu học hỏi. Sau khi thấu rõ phải tự gắng sức tu tập để thanh lọc thân tâm để đoạn trừ những vọng nhiễm đem lại an lạc, giải thoát cho mình và cho người. Chỉ khi nào trong tâm người tu thật sự an tịnh, trong sạch thì bất cứ hành động nào, ý nghĩ nào cũng đều làm lợi lạc cho chúng sanh cả, còn không thì dù núp dưới bóng dáng nào của việc thiện hay gì đi nữa mà tâm chưa thật sự an tịnh, trong sạch thì những việc làm đó cũng chỉ đem lại tư lợi cho bản thân của mình mà thôi. Cho nên, học Phật không chỉ dừng lại ở mức độ lý thuyết mà cần phải thực hành, cần phải chăm sóc nuôi dưỡng huân tập và thanh lọc tâm trong sạch trong từng giờ từng phút, cần phải quán sát thân tâm, quán sát các pháp để thấy hiện thực của muôn pháp chỉ là giả tạm. Nhờ quán sát như vậy khiến cho hành giả quay về tự tánh, thể ngộ pháp không, liễu đạt và an nhiên tự tại trước sự biến thiên của vô thường hay biến dịch của các pháp.❑

Thanh Tâm (hết)
[Tập san Pháp Luân - số 19, tr.27, 2005]


 

THẾ NÀO LÀ ĐẠI Ý CỦA PHẬT PHÁP?

Con đường đưa về giải thoát theo những lời đức Phật dạy thì có muôn lối, vì tùy thuộc vào căn cơ, nên có muôn ngàn pháp môn, nhưng mục đích chung để hướng dẫn con người thể ngộ được giá trị an lạc của đạo Phật thì chỉ có một, đó là giải thoát. Cũng như nước trăm sông chảy về biển cả, khi hòa nhập vào biển cả chỉ có một dòng nước và chung một vị là vị mặn, con người dù màu da chủng tộc khác nhau nhưng cùng chung một dòng máu, dòng máu đó chung một màu đỏ. Trong mối tương giao đó, giáo pháp cũng cùng chung một vị là vị giải thoát, dù được trình bày dưới khía cạnh nào, phương pháp hay bộ phái nào, giáo pháp của đức Phật không ra ngoài mục đích là ly khổ đắc lạc, Niết bàn giải thoát.

Thật vậy, khi luận bàn tới vấn đề giải thoát trong đạo Phật, có nhiều người cho rằng, giải thoát là bỏ đi tất cả những vọng tưởng, những phiền não bấy lâu tồn đọng trong tâm. Cũng có người cho rằng giải thoát là cởi bỏ những trói buộc của danh lợi tiền tài, sắc đẹp của thế thường tìm nơi yên tĩnh để tu tâm dưỡng tánh; cũng có người cho rằng giải thoát là tự do, tự tại, là không ràng buộc bất cứ một khía cạnh nào, không nô lệ một người nào, kể cả không nô lệ ngay cả bản năng sinh tồn của mình. Nói tới giải thoát là nói tới một đề tài rất rộng, rất bao quát sâu xa. Thật ra, đề tài này đã được các nhà học giả hay hành giả Phật giáo bàn giải rất nhiều, nhưng vấn đề để có được giải thoát thực sự xảy ra đối với mỗi người đang tu tập hay không còn tùy thuộc vào câu trả lời của mỗi cá nhân có thực hành hay không mới là vấn đề quan trọng. Để thấu triệt vấn đề này một cách chính xác, không phải dễ dàng chút nào mà chúng ta cần phải trải qua một quá trình thể nghiệm tâm linh, nỗ lực chuyển hóa, tu tập và hạ thủ công phu trong từng giờ, từng phút. Có tu tập, có chuyển hóa, chúng ta mới thấy giá trị của những lời dạy của đức Phật một cách rõ ràng, còn không mà chỉ dựa trên những định nghĩa mang tính sách vở, mang tính lý thuyết để tìm hiểu không thôi thì không có lợi ích gì cho sự tu tập để đạt được sự giải thoát trong Phật giáo. Vì khi chúng ta kinh qua sách vở để tìm hiểu thì đó cũng chỉ là phần giải thích của người ta chứ đâu phải là của mình, chỉ là lý thuyết chứ đâu phải là thực tế. Cho nên nói tới vấn đề giải thoát, là mục đích của hành giả theo đạo Phật cần hướng tới là lẽ đương nhiên, nhưng trên căn để trước hết hành giả phải biết rõ ràng và chính xác trên mặt lý thuyết theo những lời dạy của đức Phật, sau đó đem ra thực hành những điều mà chúng ta đã hiểu biết về con đường giải thoát đó trong thực hành. Ở đây vấn đề tri và hành hợp nhất phải được coi trọng và được đặt lên hàng đầu trên bước đường thực hiện giải thoát.

Trong các kinh tạng Nikaya và Agama, đức Phật thường chỉ bày cho chúng ta thấy sự ra đời của Ngài không ngoài mục đích chính là chỉ bày cho chúng sanh thấy rõ thực tại hiện tiền về hiện trạng của khổ đau và con đường thoát ly khỏi những khổ đau ấy, con đường thoát ly những khổ đau ấy thì nhiều nhưng không ra ngoài ba tụ tịnh giới, định, tuệ, mà Phật giáo gọi là tam vô lậu học. Tam vô lậu học nghĩa là tu tập để tăng thượng giới học, tu tập để tăng thượng định học và tu tập để tăng thượng tuệ học. Ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu một vài khía cạnh của nó trên một định nghĩa căn bản mà ba đời chư Phật đều y cứ, các vị tổ sau học theo, hay cụ thể nhất là câu chuyện về ngài Ô sào thiền sư và Bạch Cư Dị, một nhà thơ nổi tiếng đã từng có một huyền thoại về sự đối đáp giữa hai nhân vật lừng danh này.

Như chúng ta biết, vào thời đại nhà Đường có thiền sư Đạo Lâm, xuất gia tu học tại Vọng Sơn Hàn Châu. Tuổi ấu thơ và tráng niên, Ngài sống bình thản trong bóng mát của tàng cây cổ thụ ở sân chùa. Sư đã tự làm cái tổ trên cội cây cổ thụ để ngồi thiền, dân trong làng rất thích Sư và hàng ngày đem cơm nước đến dâng cúng và nhờ sư chỉ bày thêm giáo lý để tu học. Tương truyền, lúc mẹ Ngài sanh Ngài ra đời không biết vì lý do gì mẹ Ngài đã bỏ Ngài ở trên gốc cây cổ thụ trước sân chùa rồi bỏ đi. Từ đó Ngài nương bóng mát ở chùa xuất gia, rồi tu thiền ở trên tàng cây nên người đời thường gọi ngài là “Ô Sào thiền sư”. Chỗ Sư tọa thiền cũng là nơi thường có chim chóc kéo đến làm tổ rất nhiều, cho nên có lúc gọi Ngài là “Điểu Sào thiền sư”. Ngoài ra, lúc Ngài đang tu tập tại cây cổ thụ do nơi đó có nhiều cây tùng, các loài chim Thước kéo đến chung sống làm tổ và sống rất thuần thục, vì thế người đời còn đặt biệt danh của Ngài là “Hòa thượng Thước Sào”. Cùng thời điểm ấy, có một văn hào thi nhân nổi tiếng trên thi đàn Trung Quốc (772-846) tên là Bạch Cư Dị. Bạch Cư Dị còn là người học Phật, ít nhiều cũng biết chút ít vấn đề Phật pháp. Trong khi được triều đình phái đến Hàng Châu để nhậm chức Thái Thú; sau khi ông đến nơi, do tính hiếu kỳ muốn tận mắt thấy hành động và muốn tìm hiểu về vị Cao tăng kỳ dị này, nên ông đã đến chỗ ở của Thiền sư, ông liền nói: “Chỗ ở của Thiền sư thật là nguy hiểm!” Ô Sào Thiền sư liền nói: “Thái thú, cảnh ngộ của Ông còn nguy hiểm hơn tôi!” Nghe câu nói này ông ta giật mình. Thật vậy, đây là lời cảnh tỉnh của vị Thiền sư đối với quan Thái thú mới nhậm chức, trên quan trường bao sự tranh giành đoạt lợi, được mất, hơn thua, gian thần nịnh hót, cổ kề gươm không biết lúc nào rơi, cảnh ngộ bị giáng chức, đỗ hỏng, cách chức, bị hãm hại, làm ma thế mạng v.v... lúc nào cũng đoanh vây đầy dẫy những loại nguy hiểm xung quanh mình. Bạch Cư Dị vì bị giáng chức nên mới được điều từ kinh thành đến Hàng Châu. Còn Thiền sư tuy sống trên cây nhưng lúc nào cũng an nhàn tự tại, làm bạn với cỏ cây chim chóc, sống tự do tự tại không bị ràng buộc hay lệ thuộc vào một thứ gì, không lo lắng thế đời mà sống tùy duyên theo đạo, “đói đến thì ăn mệt ngủ liền”. Nghe xong, Thi nhân giật mình, tính kiêu mạn của ông ta hạ xuống và thầm nói:

“Ông này! Thật lợi hại!”. Sau khi nghe xong câu nói của Thiền sư, Bạch Cư Dị đã chuyển câu chuyện sang một phương diện khác, lúc này ông ta hỏi về Phật pháp.

Thái thú hỏi: “Thế nào là đại ý của Phật pháp?”

Thiền sư: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo”. Nghĩa, các điều ác chớ làm, các việc thiện nên làm, giữ tâm ý trong sạch, đó là lời dạy của chư Phật.

Thái thú nói: “Việc đó con nít ba tuổi cũng biết”.

Thiền sư: “Con nít ba tuổi biết, nhưng ông già 80 tuổi chưa chắc đã làm được”. Vấn đáp kết thúc, Bạch Cư Dị im lặng.

Qua đoạn đối đáp này, ta thấy sự chuyển hướng trong tâm thức của Bạch Cư Dị một cách đột ngột và rõ ràng, sau khi hỏi về vấn đề nguy hiểm, Bạch Cư Dị thấy lổ hổng của mình, thấy sự nguy hiểm về câu hỏi của mình đã bị thua nên chuyển hướng sang hỏi Phật giáo, vì Bạch Cư Dị muốn biết vị thiền sư này sự liễu ngộ đã đạt đến đâu. Thi nhân có ý trắc nghiệm vị thiền sư xem thế nào, trình độ hiểu biết ra sao?. Đây cũng là vấn đề thông thường mà giới Phật học vừa biết chút ít về giáo lý đạo Phật hiện tại thường đem hỏi quý Thầy, trắc nghiệm quý Thầy để xem các vị thầy có sở học và sở tu, sở chứng đến đâu, vô tình nhiều lúc làm cho tính tự kiêu, tự phụ của chúng ta càng ngày càng tăng trưởng mà không biết. Vì thế khi đọc đoạn văn đối đáp này, chúng ta thấy rất rõ sự nguy hiểm ở chỗ, học lý thuyết không phải là mục đích để đưa đến chỗ tột cùng rốt ráo như đức Phật đã từng giảng dạy là giải thoát. Nó chỉ là phương tiện giúp cho hành giả biết con đường đưa đến giác ngộ mà hành giả cần phải đạt đến để giải thoát. Chứ nó không phải là tự thân của giải thoát. Qua bài kệ này, hành giả muốn giải thoát khổ đau thật sự thì theo đức Phật phải trải qua ba giai đoạn: một tránh làm việc ác, hai thường làm các việc lành và ba muốn có sự giải thoát rốt ráo thì hành giả phải vượt lên trên cả hai việc lánh ác làm lành, là thanh tịnh tâm ý mình. Đó chính là con đường giải thoát thật sự của hành giả. Ở đây, đối với những người không học, không hiểu, không biết, vô minh mê mờ thì ta không nói; nhưng đối với những hành giả muốn bước lên trên con đường giác ngộ giải thoát thì trước hết phải học để biết (tri) đúng, chính xác, sau đó mới áp dụng cái biết vào trong thực hành. Nếu mình học mà hiểu sai, không hiểu đúng rồi đem thực hành thì mình sẽ rơi vào con đường tà kiến, rơi vào cực đoan, vô tình mình làm tăng thêm bản tính tự kiêu, ngã mạn của mình và chúng có cơ hội nổi dậy. Tính kiêu căng ngã mạn một khi sanh khởi lại là tiền tố chướng đạo, lúc ấy việc học đạo càng trở nên bế tắc, vì dưới con mắt của những người ấy không có ai hơn nữa nên chí đạo khó thành. Do đó, khi Bạch Cư Dị hỏi: “Đại ý của Phật giáo là thế nào?” Đây là một câu hỏi tuy thấy tầm thường nhưng mang một tâm ý thách thức đối chứng, nghĩa là nhà thơ cật vấn để xem Thiền sư tu học, liễu ngộ và thể nhập thế nào, không ngờ Thiền sư đã trả lời: “Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý thị chư Phật giáo”. Đến đây, Bạch Cư dị giật mình, đại ý Phật pháp dễ dàng thế ư? Câu nói này ai cũng có thể nói được hiểu được, đến cả con nít ba tuổi nếu chuyên tâm học thì chúng cũng có thể thuộc. Ý nhà thơ ngầm bảo nếu sớm biết như thế thì đâu cần thiết phải lặn lội từ xa đến để hỏi nó làm gì. Nhưng cũng nhờ câu phản vấn như vậy, giống như một nhát búa đánh mạnh vào tâm thức của Bạch Cư Dị, làm cho Bạch Cư Dị phản tỉnh trở lại. Câu nói muốn nhắc nhở và khuyên răn Bạch Cư Dị rằng tất cả mọi kiến thức về cuộc sống mà ông ta có được đều không có bất cứ một giá trị nào nếu chỉ biết trên mặt kiến thức lý thuyết suông mà bỏ qua thực hành; hãy bỏ cái tâm cống cao ngã mạn ấy đi, chúng chỉ là vọng tưởng, đem lại cho mình phiền toái mà thôi, đừng có chạy theo ngoại duyên mà hãy bỏ ngoại duyên xuống, hãy bỏ cái tính lý thuyết xuống thì may ra Ông mới hiểu được lẽ đạo. Một câu nói tuy đơn sơ, con nít ba tuổi có thể học thuộc nhưng không dễ dàng gì ông già 80 tuổi có thể làm được. Thực vậy, một bài kệ tuy tóm gọn trong bốn câu, nhưng chứa đựng toàn bộ triết lý của Phật giáo. Nói về làm lành lánh dữ không ai không biết, thậm chí người làm việc xấu cũng biết nữa là khác, nhưng rồi họ vẫn cứ dính vào và tiếp tục làm huống chi người sống tốt không biết việc ác hay sao. Để tránh một việc ác không phải ai cũng có thể thực hành được, việc thiện cần làm chưa chắc ta hiểu một cách rốt ráo và làm theo. Nhưng vấn đề then chốt của Phật giáo không nằm ở ngay thiện và ác mà nằm ngay việc một hành giả phải giữ tâm ý trong hàng giờ, hàng phút cho trong sạch, an tịnh đó mới là thâm ý Phật giáo. Nghĩa là phải giữ trạng thái không nghĩ thiện không nghĩ ác đó chính là nền tảng căn bản như Tổ sư Huệ Năng đã từng dạy cho Huệ Minh thiền sư. Chính vì yếu tố này, chúng ta mới thấy rõ, Thiền hay bất cứ một đạo lý nào khác cũng đều dạy con người bỏ ác làm lành, sống cuộc sống thánh thiện, sống không có đem lại đau khổ cho mình và người. Chỉ một việc làm với ý nghĩ đơn sơ như thế nhưng suốt cả cuộc đời chưa chắc một hành giả hay bất cứ một người nào có thể thực thi một cách hoàn thiện.

Qua đó, chúng ta có thể hiểu một cách tóm gọn, đại ý về giáo lý của đạo Phật được đúc kết bằng bốn câu kệ “các điều ác chớ làm, các điều thiện nên làm, giữ tâm ý trong sạch, đó là lời dạy chư Phật”. Qua bốn câu kệ này, càng soi sáng rõ hơn cho chúng ta thấy, đạo Phật chủ yếu chú trọng vào việc chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện và thanh lọc thân tâm trở nên thanh tịnh. Việc chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện, đạo nào cũng dạy, nhưng mức độ chỉ dạy có nhiều phương diện khác nhau.

Thanh Tâm (còn nữa)
[Tập san Pháp Luân - số 18, tr.66, 2005]