Vị Bồ-tát bảo vệ trẻ em trong truyền thống Phật giáo Nhật Bản - Phần 1

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

 

Khi mùa Xuân tới
Cây lá đâm chồi
Hoa nở thắm tươi
Nhưng những trẻ thơ
Như lá rụng rơi
Trong mùa Thu qua
Không hề trở lại
RYOKAN[1]
(Cho các bé thơ đã bỏ mình trong bệnh dịch đậu mùa)

1. Theo Dấu Chân của Bồ-tát Địa Tạng.

Trong năm vị Bồ-tát lớn của Phật giáo Phát triển – Quan Âm, Thế Chí, Ðịa Tạng, Văn Thù, và Phổ Hiền - thì Bồ-tát Ðịa Tạng đại biểu cho một khuôn mẫu tốt đẹp và tích cực nhất của lý tưởng Bồ-tát đạo, qua hành động dấn thân, lăn xả vào chốn địa ngục lầm than để cứu độ chúng sinh với lời nguyện bất hủ: Khi nào trong cõi địa ngục còn một chúng sinh khổ đau, Ngài sẽ không bao giờ trọn thành Phật đạo. Thế nên được tôn sùng như là vị “U Minh Giáo Chủ”, Bồ-tát Ðịa Tạng cùng với Bồ-tát Quán Thế Âm đặc biệt đã được quần chúng Phật tử tại Á Châu theo truyền thống Bắc Tông tôn thờ kính ngưỡng. Thế nhưng cũng không phải là không có những tư tưởng phản bác, cho rằng Bồ-tát Ðịa Tạng chỉ là một nhân vật hư cấu, sản phẩm của đầu óc tưởng tượng phong phú của người Trung Hoa, và thậm chí còn bài bác quan niệm địa ngục trong Phật giáo xem đó như là một sự hù dọa tôn giáo. Ðể trả lời cho vấn nạn này, các học giả nghiên cứu về Phật giáo cổ Ấn Ðộ hồi gần đây đã trưng ra rất nhiều bằng chứng xác định rằng  tín ngưỡng tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng (Kshitigarbha) đã được khai sanh tại Ấn Ðộ rất lâu đời, có thể là vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất hoặc thứ hai sau công nguyên (C.E.), cùng một lúc với sự phát triển mạnh mẽ của khuynh hướng Phật giáo Phát triển[2], mà bằng chứng cụ thể là Bồ-tát Ðịa Tạng và những kinh sách liên quan về Ngài đã được đưa vào chương trình học tập, nghiên cứu tại Ðại học cổ điển Phật giáo nổi tiếng Nalanda xứ Ma-kiệt-đà.

Khi Phật giáo bắt đầu được du nhập vào vùng Trung Á, vào khoảng năm 140 C.E., và trạm dừng chân đầu tiên của bánh xe Pháp là Turkestan, tín ngưỡng tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng cũng theo bước chân của những tăng đoàn truyền giáo du nhập vào vùng này thông qua “Con Ðường Lụa” nổi tiếng trong lịch sử. “Con Ðường Lụa” như mọi người đều biết, dài trên hai ngàn dặm từ Ấn Ðộ vào Trung Hoa đi xuyên qua những địa thế rất gian nan hiểm trở, với những vùng khí hậu khắc nghiệt của cả núi cao lẫn  sa mạc, thêm vào đó những vùng biên địa giữa những tiểu quốc lại đầy rẩy những thú dữ và những băng đảng cướp của giết người cũng như những bộ lạc còn rất dã man. Rất nhiều những kẻ lữ hành -kể cả các tăng sĩ truyền giáo- đã phải bỏ mạng trên đoạn đường này, đến độ theo du ký của những khách hành hương trong tinh thần “Nhập Trúc cầu Pháp” còn để lại, những bộ xương khô rải rác ở bên đường dọc theo sa mạc đã được dùng như là những dấu mốc cho kẻ lữ hành cho biết là họ đang đi đúng hướng. Ðối diện với những nỗi hiểm nguy lớn lao như thế, việc tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng như là vị Bồ-tát  bảo vệ kẻ lữ hành là một điều dễ hiểu nếu không nói là một nhu cầu hiện thực, vì như trong Kinh Ðịa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện, Phật thuyết:

“Lại vầy nữa, nầy Quán Thế Âm Bồ-tát! Về đời sau nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc nhơn sự làm ăn, hoặc nhơn sự công chuyện tư, hoặc nhơn sự sanh cùng tử, hoặc nhơn việc gấp mà phải vào trong rừng núi, hay là qua sông vượt biển, hoặc gặp nước lụt lớn, hoặc đi ngang đường hiểm trở. Người ấy trước khi đi nên niệm danh hiệu của ngài Ðịa Tạng Bồ-tát một muôn biến, được thế thời đi qua nơi chốn nào cũng có các vị quỉ thần hộ vệ, lúc đi đứng, khi nằm ngồi, đều được an ổn vui vẻ luôn, cho đến dầu gặp loài hùm sói sư tử... nhưng tất cả thứ độc hại đều không thể phạm đến người đó được.”[3]

Hàng ngàn hình tượng Bồ-tát Ðịa Tạng được tôn thờ trong những hang động tại vùng Long Môn và Ðôn Hoàng, Turkestan trong khu vực được gọi là Vạn Phật đã nói lên niềm tin tưởng của dân chúng địa phương về sự hộ trì của Bồ-tát Ðịa Tạng đối với khách lữ hành và là một bằng chứng sống động cho thấy rằng Bồ-tát Ðịa Tạng không phải là sản phẩm hư cấu của người Trung Hoa.

Từ cửa ngỏ Turkestan, Phật giáo được du nhập vào Trung quốc và chỉ trong vòng vài thế kỷ sau, khoảng năm 400 C.E , Phật giáo coi như đã hoàn toàn hội nhập vào vùng đất mới. Tại đây cây Bồ Ðề đã bắt đầu bám rễ một cách vững chắc góp phần vào việc phát triển một nền văn hoá Trung Hoa đa dạng, phong phú và rực rỡ. Ðồng thời tín ngưỡng tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng cũng đã bộc phát mạnh mẽ trong khoảng thời gian từ giữa cho đến cuối niên kỷ 500 C.E. do niềm tin của một giáo phái Phật giáo, “Tam Giai Giáo”[4], cho rằng, theo kinh Phật, đây là thời kỳ Mạt Pháp, và trong giai đoạn này việc thờ phượng Bồ-tát Ðịa Tạng là thích hợp nhất. Tín ngưỡng tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng đạt lên đến đỉnh cao khi người Trung Hoa chọn ngọn núi Cửu Hoa Sơn làm nơi trụ tích của Bồ-tát mà theo truyện tích còn để lại thì Bồ-tát đã hóa thân thành một nhà sư Triều Tiên đến Trung Hoa hoằng pháp và liễu đạo tại đây.

Từ  Trung Hoa, Phật giáo cùng với tín ngưỡng tôn thờ Bồ-tát Ðịa Tạng bắt đầu du nhập vào Nhật Bản thông qua cửa ngỏ Triều Tiên vào khoảng thế kỷ thứ Năm hoặc thứ Sáu C.E. Nhật Bản lúc bấy giờ so với Trung Hoa và ngay cả Triều Tiên, là một quốc gia còn  ở trong tình trạng bán khai, lạc hậu. Bị hăm dọa thường trực bởi nạn động đất và núi lửa, dân chúng Nhật Bản đa phần sống dưới những túp lều tranh đơn sơ trong những ngôi làng bé nhỏ nghèo nàn, cai quản bởi những lãnh chúa địa phương. Họ chưa có thành thị, hệ thống tiền tệ, chữ viết, không trường học và bất cứ một nghi thức tôn giáo nào. Tuy nhiên Phật giáo đến với Nhật Bản không phải là để lấp chỗ trống tôn giáo này, vì dân Nhật vẫn có những tín ngưỡng đa thần cổ sơ, thờ cúng ông bà và tôn sùng Thần Ðạo. Ngược lại, Phật giáo đến với Nhật Bản như là biểu trưng của một nền văn minh Trung Hoa đã chín mùi, đầy sức thu hút và quyến rũ. Hơn thế nữa Phật giáo còn mang đến cho Nhật Bản những vị Bồ-tát rất gần gũi với những nhu cầu của cuộc sống đời thường, mà cụ thể là Bồ-tát Ðịa Tạng. Nếu như người Nhật trước đây tôn sùng Thần Ðạo, đã từng quen thuộc với những ông thần Núi, thần Sông, thì nay, Bồ-tát Ðịa Tạng-như tên gọi của Ngài- trong cảm quan người Nhật chẳng khác gì một ông thần Ðất thiết thân và gắn bó. Trong một sớm một chiều, hình ảnh của Bồ-tát Ðịa Tạng đã lần hồi chiếm chỗ của những vị thần đã ngự trị trước đây trong lòng dân Nhật. Người nông dân gặp khó khăn trong công việc đồng áng ư? Họ kêu cầu đến Bồ-tát Ðịa Tạng. Gặp lúc trời hạn hán không mưa? Lại phải nhờ đến oai lực của Bồ-tát Ðịa Tạng. Thậm chí gặp lúc đau mắt, nhức răng không biết chạy đi đâu người ta cũng phải chạy đến cầu sự giúp đỡ của Ngài. Ngài trở thành vị Bồ-tát bảo vệ thôn làng trước họa binh đao, nước lửa; là người bảo vệ cho sản phụ mẹ tròn con vuông, kẻ bảo hộ cho những chiến sĩ được bình an trong trận mạc. Chưa hết, đến phút lâm chung, cũng chính Bồ-tát Ðịa Tạng là người đến tiếp dẫn họ đến cõi Tây phương Tịnh Ðộ của Phật A Di Ðà, và chẳng may nếu một người nào đó gây nên những ác nghiệp xấu xa phải rơi vào chốn địa ngục, nếu biết ăn năn sám hối kêu cầu đến Ngài, Ngài cũng sẽ sẵn sàng lăn xả vào chốn địa ngục để đưa họ ra khỏi chỗ tối tăm...

Ðể tán thán công năng cứu độ chúng sanh không thể nghĩ bàn của Bồ-tát Ðịa Tạng, người dân Nhật đã tạo ra không biết bao nhiêu những truyện tích, huyền thoại để nói về Ngài. Với khuôn mặt dịu hiền khả ái và trên môi như luôn luôn điểm một nụ cười, hình ảnh của Ngài đã hoà nhập vào tất cả mọi nền nếp suy nghĩ, những lo âu trong cuộc sống đời thường của dân chúng Nhật Bản. Hình ảnh của Ngài làm người ta liên tưởng đến hình ảnh của một vị y sĩ  vùng quê sẵn sàng có mặt bất cứ lúc nào cho bất cứ ai cần đến trong cơn đau đớn, sợ hãi, âu lo, hoạn nạn dù lớn hay nhỏ. Cho đến bây giờ, không phải chỉ ở vùng quê mà ngay tại những thành phố, kể cả những thành phố lớn đông đúc rộn rịp như Ðông Kinh hay cố đô Kyoto, nếu bạn cần đến sự giúp đỡ của Bồ-tát Ðịa Tạng, có lẽ bạn cũng không cần phải đi đâu xa, bởi vì chỉ cách một vài góc phố, vài ngả tư đường người Nhật lại dựng lên một bàn thờ nhỏ thờ Bồ-tát Ðịa Tạng, mà trên đó là những bó hoa tươi thắm, những phẩm vật cúng dường đơn sơ nhưng chan chứa những tình cảm trân trọng: vài viên kẹo, dăm trái quýt, và đôi khi cả những chén rượu sake... Những bàn thờ này luôn luôn được chăm sóc sạch sẽ bởi cư dân địa phương, điều này đã nói lên những tình cảm tin tưởng trân quý của người Phật tử Nhật Bản luôn luôn hướng về Ngài. Ở những nơi thờ phượng lớn hơn, người ta còn thấy Phật tử dâng cúng lên Ngài những bộ áo quần trẻ con, những đôi giày, dép Nhật Bản, vì người ta tin tưởng rằng Bồ-tát Ðịa Tạng đã phải đi mòn không biết bao nhiêu là gót giày, tất bật tới lui không ngừng trên khắp nước Nhật để an ủi, săn sóc bất cứ những ai cần đến Ngài giúp đỡ. Ðặc biệt khi người ta dâng cúng đến Ngài những bộ áo quần trẻ con là vì do niềm tin theo truyền thuyết, Ngài là người rất yêu thích trẻ con, là vị thần hộ mệnh của những trẻ thơ bất hạnh. Ðây có thể nói là một trong những nét độc đáo, đầy ý nghĩa của Phật giáo Nhật Bản.

Tâm Hà. (Còn tiếp)

(*) Một phần nội dung của bài viết được rút ra từ tác phẩm : « Jizo Bodhisattva, Mordern Healing & Traditional Buddhist Practice », Jan Chozens Bays, Tutle Publishing, 2002
[1] Thiền sư Taigu Ryokan (1758-1831) là một nhà thơ nổi tiếng rất được yêu thích trong văn học Nhật Bản. Ông cũng là một nhà sư nghèo nổi tiếng, sống đạm bạc trong một túp lều tại một vùng quê đầy tuyết phủ. Hàng ngày đi vào làng khất thực, đám trẻ con trong làng thường chạy theo ông và ông cũng đùa giỡn, chơi trò vật lộn với chúng một cách hồn nhiên. Bài thơ sau đây đã mô tả một khung cảnh như thế:
“Trời xanh cao và nắng chói chang Với chiếc áo màu xanh thắm tươi, tạo vật đón chào ngày Xuân mới Ôm  chiếc bình bát trên tay tôi thả bộ vào làng Ðám  trẻ đang chơi đùa trước cổng chùa dừng tay nhìn tôi mời gọi Tôi đứng lại cởi chiếc túi vải treo lên cành cây Ðặt chiếc bình bát trên mỏm hòn đá trắng Chuyến khất thực của tôi chấm dứt tại đây Khi dừng lại và thay phiên nhau chơi trò ném banh với chúng Khách qua đường dừng chân, cười, chỉ chỏ: “Sao lại chơi đùa như con nít thế kia!” Tôi im lặng cúi đầu chào họ Bởi giải thích đâu chắc gì có ai đã hiểu Rằng chẳng có gì ngoài phút giây đang hiện hữu này đây.”
Tất cả những thư họa, vật dụng... của nhà thơ nay còn được lưu giữ tại Bảo tàng viện Ryokan, tại Izumozaki.
[2] Kinh Ðịa Tạng Bổn Nguyện, Phẩm Thứ Mười Hai, “Thấy Nghe Ðược Lợi Ích”, Bản dịch của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh.
[3]  Xem “Jizo Bodhisattva, Modern Healing & Traditional Buddhist Practice”, Jan Chozens Bays, Tutle Publishing, 2002. P. 95.
[4] Tam Giai Giáo do Ðại sư Tín Hành (540-594) khai sáng với hoài bảo đem Phật pháp để truyền bá sâu rộng trong dân gian, phù hợp với thời cơ và quốc độ. Gọi là Tam Giai Giáo vì ngài Tín Hành đem giáo pháp của đạo Phật chia làm ba bậc: Nhất thừa, Tam thừa và Phả pháp. Ba bậc này tương ứng với ba thời là Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp. Nay chúng sinh đang ở trong thời Mạt pháp, phải nương nhờ vào “Phả pháp giáo” để tu hành mới có thể thoát vòng sinh tử.

[Tập san Pháp Luân - số 8]