Suối nguồn Tam bảo - Phần 1

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

 

Một ngày được lặp lại với những gia tốc của cuộc đua nhằm giành được một cái gì đó hình như là cuộc sống với những yêu cầu thường trực: tiền bạc, công danh và các tích lũy khi gặp cơn hoạn nạn. Vâng! Ta đã quá quen với những dữ liệu hầu như đã tràn ngập khắp hành tinh này trên bàn tay công nghệ xiết chặt lại, hệt như cái bắt tay của một thoáng rất quen, nhưng lạnh lùng và, không có gì để chờ đợi, hoài mong.

Cũng vậy, tôn giáo có vẻ sắp như phải “đầu hàng” và trắng tay trước “khoa học vạn năng” và nó đã được phát triển đến mức độ càng lúc càng được ủng hộ nhiều hơn, và càng nhiều hơn trong các quốc gia mà, tình trạng nghèo nàn, lạc hậu vốn dĩ đã pha trộn chất liệu “khói hương” tôn giáo và pha trộn luôn cả những quỳ luỵ khẩn cầu. Hãy nhìn một cách tinh tế và thảm kịch, ở đâu càng nghèo nàn, thì ở đó, chùa đình miếu mạo càng thi nhau đua mọc và người ta càng siêng năng lễ bái khẩn cầu. Thần linh luôn ngự trị trong những vùng khổ đau và túng thiếu. Họ luôn ban phước trong bóng tối. Ở đâu càng nghèo nàn, thì ở đó “khoa học” dễ dàng thống trị con người cũng tương tự như là sự ngự trị của “bóng tối của thần linh”. “Khoa học” ban phước và “thần linh” ban phước, cả hai là nhất thể. Chúng ta được ăn đồ đóng hộp và hậu bị là “phước báo”.

Nhìn lại, số phận của Phật giáo không khác gì hơn số phận của một người con bị bỏ rơi. Nó “đòi hỏi” một nền đạo đức nào đó trước sự tấn công vũ bão của “khoa học” và “nó” lễ lạy mong cầu với một cuộc đời đã quá quen vội vã - vội vã và khập khễnh kiếm cái ăn trên “công nghệ thông tin” và, vội vã “kiếm chút phước” trong nghi thức khói hương tôn giáo.

Suối nguồn tam bảo đi vào diệu viễn, còn ta thì hoài vọng về cái “đơn sơ” tự tưởng từ những quá khứ xa mờ, huyễn ảnh; mà thật sự, ta chưa từng một lần tiếp cận với cái huyễn ảnh đơn sơ ấy bao giờ. Niềm hoài vọng đã trở thành “thiên tình sử” trong Phật giáo.

Tôn giáo riết rồi, trở thành thi ca trên những hoài tưởng xa huyền. Y như cách hoài niệm về quá khứ xa xôi của các nhà thơ Âu-Mỹ vậy. Khi tuyệt vọng trên con đường tồn tại, người ta hay mơ về quá khứ với những thần linh, người ta mơ đến những “bi kịch” mang tính trí tuệ, hơn là nhận chân được Cảm thọ,  chỉ là trò chơi của Xúc.

Nghèo, sợ hãi, kém tri thức là mặt trái của đời sống xa hoa và kiêu mạn và chúng biến thể thành những giá trị độc tôn – mãi rồi người ta trú trong sự “kiêu hãnh” của “đạo học” và gạt phăng tri thức toàn cầu, xét như là tục đế, bởi vì nó, cái tục đế ấy vốn vô thường và, không có gì “đáng để học” cả.

Nếu và chỉ nếu, ta thừa nhận rằng, lịch sử của Phật giáo là  lịch trình “sử thoại” của trí tuệ, bao gồm cả hai phương diện: thế gian và ngoài thế gian. Thế thì, những gì được cho là quy ước, ta cần phải hiểu và hiểu một cách triệt để, trước khi bước ra ngoài sự quy ước ấy mà ta tự hào là xuất thế gian pháp. Một thứ xuất thế gian được sắp thành chữ mà thôi. Đây là lý do vì sao đức Đạt-lai Lạt-ma XIV hoàn toàn thành công trên khắp châu Âu và Mỹ qua phương diện truyền pháp, khi ngay từ ban đầu Ngài đặt bước chân của mình lên đất Mỹ, Ngài đã tiếp xúc hầu hết những chuyên gia về, cái mà ta gọi là tục đế ấy. Những nhà Thần kinh học, Tâm lý học, Vật lý và Vũ trụ học, v.v… và nghiễm nhiên Ngài đã là một bậc Đạo sư bằng xương bằng thịt của cả thế giới này. Còn riêng ta, thì chỉ tiếp cận với khói hương và các giá trị thần quyền độc tôn. Tại sao vậy? Bởi vì, trong Phật giáo chưa có ai là chuyên gia hàng đầu về Vật lý và các ngành khoa học khác cả. Do vậy, ta “đành để” lãnh vực này qua một bên, thậm chí, ngay cả khoa Toán, Đại học Phật giáo, cũng “phớt lờ” và các Giáo sư ở đây, có thể cho rằng Toán học là phân biệt vọng chấp. Ta học Phật trên cở sở Hoa học, còn Tây phương thì học Phật trên cơ sở Phạn học hay Ấn Độ học. Do vậy, “định bản” của Phật giáo nằm tận ở trời Tây giàu có và còn rất mơ hồ trong Tam tạng thánh điển Hoa dịch. Do vậy, khuynh hướng học Phật giờ đây mà cán cân của nó nghiêng hẳn về Tây. Chí đến, truyền thống Hoa học mà ta vốn bẩm thụ nhiều thế kỷ qua hàng loạt những bản Kinh, đôi khi ta phải tham khảo chéo bằng Tây ngữ, thì mới mong hiểu được cái mà ta vốn được dạy trải qua hàng thế kỷ.

Ở đâu còn xem tục đế là vô thường và bám lấy nó - cái chữ vô thường đó - như sự yếu kém của mình, thì ở đó có “cái ngã“ bị chi phối bởi các thế lực nằm bên sau nó, cộng hưởng với nó.

Muốn biết tục đế là gì, thì ta hãy đi ra ngoài nó, bằng bất cứ phương tiện gì - mọi phương tiện vốn hằng hữu trong Phật giáo -mà ta đã quá quen, để rồi lạnh lùng ghé thăm phi cảm - “một năm Phật tại tiền, nhiều năm Phật ngoại biên” - Thói quen với những gia tốc của động cơ tồn tại hay dục vọng làm ta quên mất Tam bảo trong chính chúng ta; cho dù thật sự ta đã quy y. Một chủng tính, một dấu ấn càng lúc càng khô kiệt, teo mòn vì, chẳng có môi trường nào để nó tăng trưởng cả; nó chỉ tăng trưởng theo hương khói mà thôi. Phật chủng hay Phật tuệ cũng trôi lăn cùng phong ba bão tố của dục vọng tự tồn.

Hãy giả định rằng, đất nước ta có mười triệu cư sỹ và khoảng hai triệu Tăng lữ. Nếu, thử giả định rằng, chỉ cần một phần trăm trong tổng số đó, chuyên ròng là những nhà nghiên cứu về mọi lãnh vực của Tục đế, thử hỏi có thế lực nào chi phối chúng ta chăng? Có động cơ “tài chánh danh lợi” nào quyến rũ ta chăng? Các cống hiến tri thức triệt để về thế giới tục sẽ là bình minh của Pháp thân Phật. Chùa to chưa hẳn là một môi trường ưu việt để Phật giáo tăng thịnh, đôi khi ngược lại là khác.

Một con người dành cả đời mình cống hiến cho sự an lạc của chúng sinh, cho dù họ chưa quy y đi nữa, theo đức Đạt-lai Lạt-ma, thì vị ấy vẫn được xem là Bồ-tát. Bởi vì giới chỉ tồn tại ở Dục giới mà thôi và nhờ đó người ta Giải thoát. Bất kể ai đang đi trên lộ trình tư duy cống hiến, thì người đó đang bay bằng đôi cánh của Trí Bi.

Nói đến Đế, thì đầu tiên phải nói đến Khổ đế.

Nói đến Khổ thì ai cũng phải thừa nhận (bởi vì hệ di truyền của chúng sinh ở địa cầu này là hệ di truyền của Xúc và Thọ…và tư duy hình cánh cung…). Tuy nhiên, cái khổ của người, chẳng hạn, nghèo túng, cái khổ của người bệnh tật thiếu thuốc men y liệu, khác hẳn với cái khổ của nhà kinh tế và cái khổ của nhà Vi trùng học. Cái khổ của một người chưa mua được cái máy tính xách tay hiện đại, khác với cái khổ của nhà chế tạo máy tính và các nhà ngôn ngữ lập trình…Cũng vậy, cái khổ của phàm phu khác hẳn với cái khổ của bậc Thánh khi họ Thiền chứng ở giai đoạn cao tầng - Khổ trí nhẫn - Sự thừa nhận trên mặt trí tuệ về khổ này có giống cái khổ kham nhẫn của chúng ta không? Tôi tin là chẳng giống chút nào. Trên thực tế tác dụng của cái Khổ phàm phu là động cơ đưa đến “chiến tranh ý thức hệ”, chiến tranh tôn giáo. Còn cái khổ  của bậc trí cũng y như cái khổ của nhà Vi trùng học, đôi khi họ “chết” vì chính loại vi trùng mà họ còn đang nghiên cứu để hàng phục loại trừ nó và họ tái sinh bằng chính những thực nghiệm của mình. Nghĩa rằng, khi thực nghiệm được chân lý về Khổ, thì, bậc Thánh giả ấy hoàn toàn được đảm bảo viên chứng Phật quả, cho dù ở một thời kỳ tương lai nào đó. Cũng Khổ, nhưng Khổ đế, khác với Khổ tục, và tôi tin là cái Khổ Thánh Đế, là chất liệu làm nên thanh bình cho ba cõi, và ngược lại.

Nên nhớ rằng, khi Phật giáo truyền vào Hoa lục, thì bản thân của Phật giáo đã làm phong phú thêm kho từ vựng của Trung Hoa, ít nhất ra có đến vài ngàn thuật ngữ (xem 中華五千年文化經典 / 楊力著). Tuy nhiên, vì là một đất nước nền tảng là Nho học và Nông nghiệp, nên Phật giáo ở đây chảy theo hướng triết học và huyền học với những suy diễn mơ hồ. Trong khi đó, tự thân của Phật giáo là một tôn giáo “khoa học phổ quát” và không phải là “khoa học nhánh”, chẳng hạn, triết học chỉ là một nhánh của Phật giáo mà thôi. Cũng nên nhớ rằng, Phật giáo sanh ra trên mảnh đất của tư duy Toán học và Vật lý; trên mảnh đất của Thiên văn và Vũ trụ học (xem Astrologie In Buddhisccher Sicht von Helmuth Hecker; Die Psychologie Der Befreiung / Der Buddha und die Triebe; Das Zeitlose Wort Vom Dasein von Helmuth Hecker). Theo chương trình Discovery, thì chữ Không (śūnya) được cho là giấc mơ của đấng Phạm thiên. Trong mơ, ông đã hoá sanh vạn hữu, có nghĩa rằng, vạn hữu chỉ tồn tại như là một giấc mơ mà thôi. Giấc mơ là không thực, nhưng có thực do không và từ đó, nhân loại này có con số Không. Con số ấy là “hạt cơ bản” làm nên vạn pháp. Đến Phật giáo śūnya đã là śūnyatā (Tánh không), chỉ cho trí Bát-nhã và chỉ cho tính liên hệ của vũ trụ này, trong đó có cả đại bi, chớ không độc nhất là sự sáng tạo của đấng Phạm thiên, dù chỉ là sự sáng tạo trong giấc ngủ trưa của ông, khoảng 13 tỷ năm. Từ chữ Không này, người Ấn đã chế tạo các trục tròn, các ngành hoá học luyện kim. Chẳng hạn, thuật ngữ phiền não (như Hoa dịch - √kliś – kleśa ), trên thực tế, chỉ là chất nhuộm. Ðiều này cho biết rằng, phiền não, theo Ấn Độ, thì chỉ là chất liệu mà thôi. Nếu đi theo hướng tâm lực, thì phiền não có thể được tẩy trừ bằng một chất liệu nào khác, bằng chính khả tính của tâm, chẳng hạn, Thiền định. Do vậy, thiền định được xem như là năng lượng thuộc về Sắc và, bởi vì Sắc, nên nó là Không – phương tiện đưa đến cứu cánh Niết-bàn. Phiền não, nếu đi theo hướng Công nghệ hoá học, thì chắc chắn, ta sẽ có những ngành sinh hoá tuyệt vời hơn và từ đó ngành Y sẽ có cơ hội phát triển theo hướng liệu pháp, nhằm phục vụ cho thế giới này. Tận đến ngày hôm nay, châu Âu cũng chưa hiểu vì sao mà người Ấn lại có thể rèn nên những thanh gươm tuyệt bén như thế trong chiến tranh chống lại sự xâm lược của Tây phương và Hồi giáo.

Như vậy, hơn năm ngàn năm về trước, Ấn Độ đã khám phá ra các chất hoá học rồi. Thêm nữa, Âm thanh học và Ngôn ngữ học, là một phát hiện vĩ đại của người Ấn. Và các khám phá này, đã là kim chỉ nam cho toàn nhân loại. Chưa có, ở ngay bây giờ,  nhà ngôn ngữ học nào vượt qua được Pāṇini cả. Trong khi đó, như ta biết, ngôn ngữ Trung Hoa là “ngôn ngữ nói theo cảm thọ” và mới được hệ thống hóa khoảng vài thập kỷ gần đây. Thế thì, Tam Tạng Thánh Điển Hoa dịch cũng cần nên đánh giá lại. Chí đến cách chấm câu trong bản Đạo đức kinh, đến giờ người nói bản ngữ tiếng Hoa vẫn còn đang tranh cãi. Nói như thế, không có nghĩa là ta cho rằng, các đại dịch sư như Huyền Tráng, La Thập… đã làm sai ý Phật. Song, đối với một nhà “nghiên cứu”, thì “lịch sử văn bản” vẫn là một vấn đề cần được “tách lớp”. Tôn giáo, tồn tại ở phần hậu diện, trước khi sự nghiên cứu tới hạn của họ. Hệ di truyền ngôn ngữ của dân tộc này khác hẳn với hệ di truyền ngôn ngữ của dân tộc kia. Do vậy, học Phật Hoa học mà không học Phật Phạn học là một sai lầm nghiêm trọng. Luận án “Tiến sỹ” Phật học phải viết bằng Phạn văn, chớ không bằng bất cứ loại ngôn ngữ nào khác, và đây là một yêu cầu, thiết nghĩ không có gì là quá đáng, cho một sinh viên Phật khoa.

Uống nước nên uống tận nguồn, mới biết ngọt, đắng ra sao.

Hãy lấy ngay văn kệ đầu tiên của Câu-xá thì sẽ biết:
yaḥ sarvathā sarvahatānghkāraḥ
saṃsārapkāj jagadujjahāra |
Tasmainamaskṛtya yathārthaśāstre
śāstraṃpravakṣyabhidharmakośam
【玄】諸一切種諸冥滅
拔眾生出生死泥
敬禮如是如理師
對法藏論我當說
【真】一切種智滅諸冥
拔出眾生生死泥
頂禮大師如理教
法俱舍我當說
(Vị mà mọi bóng tối bị tận diệt, đã kéo chúng sinh ra khỏi vũng lầy sinh tử.

Do vậy, tôi đảnh lễ Ngài và sẽ thuyết thành Tạng đối pháp y trên chân giáo nghĩa [của thầy mình].)

Yaḥ, là đại từ liên hệ số ít, chỉ cho đức Phật, song, đức Phật nào? Chính là đức Bổn sư của chúng ta, chớ không là vị Phật nào khác, đúng như ngay từ đầu của Luận bản – Oṃ namo Buddhāya – và, theo Yasomitra giải thích, thì  Yaḥ, chỉ cho đức Phật Thế Tôn (ya iti Buddhaṃ bhagavantam adhikṛtyām aha). Đức Phật có nghĩa là bậc có phương pháp chặt dứt triệt để (mọi bóng tối) (Buddha iti kartari kta vidhānam), đức Phật là bậc có phẩm chất khai sáng trí tuệ, đưa đến sự thành tựu Chánh đẳng giác  (buddher vikasanām Buddhaḥ, vibuddha ityarthaḥ).

Ở đây, ta thấy có sự khác biệt giữa dịch bản của Huyền Tráng và Chân Đế: chư (諸) và trí (智). Cả hai đều làm chủ ngữ trong câu. Với Chân Đế, câu trên có nghĩa là: bậc trí là bậc tiêu diệt bóng tối một cách toàn diện. Còn chư của Huyền Tráng đã được các nhà chú giải, giải như sau: “chư, theo nghĩa phổ thông là số nhiều, tức nhiên không phải là một; chư, xưa nay đối với các học giả Phật học, thường dùng để chỉ cho Phật, thế nhưng, tại sao không trực tiếp nêu tên Phật ra, mà lại dùng chữ chư? Đây là một vấn đề dụng ngôn cực kỳ tinh tế, bởi vì, các triết gia tôn giáo khác đều cho rằng tông sư của mình là bậc nhất thiết trí, cho nên luận chủ (tức Thế Thân) muốn tránh lời dèm pha của ngoại đạo, là mình thiện vị, lập bè phái mà ca ngợi đức độ của thầy mình, chớ không phải thiết tha chân lý. Do vậy nói chư, mà không gọi đích danh Phật. Tức là, luận chủ cho rằng, bất luận là ai, nếu đủ cả Tam đức, thì vị ấy đều là thầy mình.” Và theo Quang ký, hiểu yaḥ là số nhiều.

Ta thấy, ở đây, người Hoa, đang lý giải chữ Chư của đại sư Huyền Tráng, chớ không là yaḥ  (số ít) của Thế Thân.

Còn nữa, theo Pháp sư Diễn Bồi, chư, chỉ cho chư Phật, tức là chỉ chung cho Phật.

Xa hơn, đối với kệ tụng: sarvathā sarvahatānghkāraḥ, thì Quang Ký cho rằng: “[nhất thiết chủng minh diệt], là chỉ diệt trừ vô tri không nhiễm ô, và [chư minh diệt], chỉ diệt trừ vô tri còn nhiễm ô. Cách đọc này hiểu sarvathā là hình dung từ; trong khi ở tiếng Phạn, nó là bất biến từ hay phó từ, do vậy, nó có nghĩa là: [một cách toàn diện] hay tuyệt đối.”

Thậm chí sự diễn luận của Quang Ký, Diễn Bồi pháp sư và sớ giải của Viên Huy pháp sư đã phát triển một cách quá xa, và phát triển theo cách loại suy trên dịch bản của Huyền Tráng. Hình như khi loại suy như thế, các luận sư của ta có lẽ không đối chiếu tiếng Phạn. Do vậy, thầy Tuệ Sỹ dạy rằng: “Cách lý giải như thế, có thể là hay hơn cả Thế Thân, nhưng không trúng với bản ý của Thế Thân.” (Tuệ Sỹ, Khóa giảng Câu-xá tại Tu viện Già Lam)

Một vài điểm vừa nêu, nằm bên ngoài sự khen chê, mà qua đó, bản văn muốn nói rằng, khi làm công việc học Phật hay trầm tư về Thánh ngôn của chư tổ sư mình - suối nguồn Tam bảo - ta nên cẩn trọng để khỏi bị cảm thọ kéo lôi theo hướng phân tích triết học. Các lý giải của chư tổ, chư luận sư Trung Hoa, rõ ràng là đã cống hiến cho văn minh nhân loại này bằng những khối lượng văn bản khổng lồ và nhờ thế, mà ta có thể hiểu thêm Phật pháp theo cách mở rộng có chọn lọc nhiều như thế.

Chú Thích:
1. Pāṇini: (1.1.26): kta ktavatū niṣṭhā.  (Kta là một biến tố dùng để thay cho thuật ngữ niṣṭhā - tận cùng, triệt để.
2. 演培法師俱舍論記
3. Tuệ Sỹ:  Quang ký (T41n 1821 p2c5). “Chư, nói lên sự không phe đảng.“
4. Tuệ Sỹ: A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận.

Pháp Hiền cư sỹ (còn tiếp)
[Tập san Pháp Luân - số 62, tr43, 2009]