Mỗi lần Tết đến, nhiều người trong chúng ta đều gởi và nhận nhiều lời chúc hạnh phúc. Nhưng kinh nghiệm cho biết hạnh phúc không đến từ những lời chúc tụng, hạnh phúc cũng không được ban phát một cách tùy tiện từ trời cao. Thay vì chúc tụng hay cầu xin, các nhà hiền triết phương Đông đã biết sống thích nghi với hoàn cảnh để tìm thấy hạnh phúc cho chính mình.
Cái nghệ thuật sống khôn ngoan để có hạnh phúc tùy duyên ấy, một triết gia Việt Nam sống vào thế kỷ XVI là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chuyển tải qua hai câu thơ có hình thức giản dị mà nội dung hàm ẩn ý nghĩa sâu sắc như một công án của thiền sư:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 18)
Thu là mùa sinh trưởng của cây măng cho nên Nguyễn Bỉnh Khiêm ăn măng trúc và thấy ngon miệng. Sang đông, măng không còn nữa thì nhà thơ nhàn ăn giá là thức ăn tươi non và có nhiều dưỡng chất như măng. Thu mát, đông lạnh nên nhà hiền triết chú ý đến chuyện ăn uống để thân thể có đủ nhiệt lượng. Sang xuân khí trời đã ấm áp, vào hạ thời tiết trở nên nóng bức. Cho nên, trong hai mùa này, thú vui của nhà thơ đã chuyển đổi từ ăn ngon sang tắm mát. Mùa xuân, Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm thấy thỏa thích khi được tắm trong hồ sen sâu rộng, trong xanh. Vào mùa hạ, còn xuống tắm hồ sen thì người ta sẽ chịu khổ đau vì bị gai của cây sen làm xây xát, ngứa ngáy. Vì thế, vào mùa hạ, cụ Trạng Trình đã tìm sự thảnh thơi và thích thú trong dòng nước mát của ao nhà.
Nghị luận về hạnh phúc, các thầy giáo thường yêu cầu học sinh định nghĩa hạnh phúc mà không biết rằng định nghĩa hạnh phúc không khéo thì người ta có thể bắt đầu mất hạnh phúc. Khi một chàng trai khẳng định hạnh phúc của đời tôi là được kết duyên với cô gái ấy, có nghĩa là hiện tại anh ta không có hạnh phúc vì chưa được sống chung đôi với người đẹp. Làm mọi cách để chinh phục cho được trái tim của giai nhân quả thật là công việc không dễ dàng chút nào. Đến khi chàng và nàng đã được chung sống với nhau dưới một mái nhà thì cũng không chắc là hạnh phúc đã được tìm thấy. Cho nên, người trí không tự ràng buộc mình vào một khái niệm cố định về hạnh phúc mà luôn luôn biết sống linh hoạt và tùy duyên như Nguyễn Bỉnh Khiêm để có thể tìm thấy hạnh phúc trong mọi cảnh ngộ.
Chịu ảnh hưởng của thi ca lãng mạn phương Tây, nhiều thi nhân tiền chiến cũng như “hậu chiến” Việt Nam thường cho rằng người ta chỉ có thể tìm thấy sức sống trong mùa xuân và tìm gặp hạnh phúc khi còn tuổi trẻ. Hậu quả bi thương của quan niệm sống thiếu khôn ngoan này là ngay khi còn có tuổi trẻ và mùa xuân, người ta cũng không được sống hạnh phúc trọn vẹn vì lo sợ tuổi xuân qua mau và cảnh già nua lụ khụ sẽ đến:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
(Xuân Diệu, Vội vàng)
Người phương Đông không quan niệm hạnh phúc chỉ có trong mùa xuân và với tuổi trẻ. Biết sống thích nghi với mọi hoàn cảnh như Nguyễn Bỉnh Khiêm thì vào mùa nào ta cũng có được hạnh phúc, với lứa tuổi nào ta cũng có thể tìm thấy mùa xuân. Cổ nhân phương Đông không những tìm thấy hạnh phúc khi tuổi còn trẻ mà còn tìm thấy mùa xuân khi tuổi đã già. Không ai khác, chính triết gia Nguyễn Bỉnh Khiêm của Việt Nam đã khẳng định như vậy:
Chín mươi thì kể xuân đà muộn,
Xuân ấy qua thì xuân khác còn.
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 41)
Đồng quan điểm với Nguyễn Bỉnh Khiêm nhưng đi trước Nguyễn Bỉnh Khiêm ba thế kỷ, Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông đã kết thúc mười hội của Cư trần lạc đạo phú bằng bài kệ:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo, hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền.
(Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, thế kỷ X - thế kỷ XIII)
Hai câu thơ đầu của bài kệ thể hiện giáo lý tùy duyên mà mỗi Phật tử Việt Nam trong Tết Mậu Tý này có thể vận dụng vào đời sống để đạt hạnh phúc chân thật, để có mùa xuân vĩnh hằng, tìm thấy hạnh phúc ở đây và lúc này...
Tâm Hỷ
[Tập san Pháp Luân - số 47, tr.10, 2007]