Visākhā - vị nữ đại hộ pháp thời đức Phật

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada đã bảo cô tập trung 500 tớ gái, 500 thị nữ với 500 cỗ xe đi đón đức Phật nhân dịp Ngài đến viếng Bhaddiya, quê cô, trong vương quốc Anga. Vui vẻ vâng lời, cô đã tiếp đón, đảnh lễ đức Phật rồi cung kính ngồi sang một bên. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, cô đắc quả Tu-đà-hoàn.

 

Lúc ở tuổi mười lăm, cô đã có được sức mạnh như đàn ông, vẻ mỹ miều, duyên dáng của thiếu nữ và trí tuệ hơn người, sáng suốt trong việc thế gian cũng như trong phạm vi tinh thần, đạo đức. Cô được các vị Bà-la-môn chọn làm người vợ lý tưởng cho vị thầy trẻ tuổi của mình, thầy Punnavaddhana, con triệu phú Migara. Lễ cưới cử hành long trọng. Ngoài của hồi môn, người cha sáng suốt còn dạy cô những điều sau:

1 - Không đem lửa trong nhà ra ngoài ngõ.

2 - Không đem lửa ở ngoài vào nhà.

3 - Chỉ cho đến những người biết cho.

4 - Không cho đến những người không biết cho.

5 - Cho đến cả hai, những người biết cho và những người không biết cho.

6 - Ngồi một cách an vui.

7 - Ăn một cách an vui.

8 - Ngủ một cách an vui.

9 - Coi chừng lửa.

10- Tôn trọng các vị trời trong nhà.

Các điều ấy có nghĩa là:

1.- Không nên nói xấu chồng và cha mẹ chồng với người ngoài. Cũng không đem chuyện xấu bên nhà chồng thuật lại với người ngoài.

2.- Không nên nghe lời tường thuật hay những câu chuyện của người khác.

3.- Đồ trong nhà chỉ nên cho những người nào mượn rồi trả lại.

4.- Không nên cho những người mượn đồ mà không trả lại.

5.- Phải giúp đỡ những người nghèo khó, dù họ có trả lại được hay không.

6.- Phải ngồi đúng chỗ thích nghi.

7.- Trước khi ăn phải coi có dọn đủ cơm cho cha mẹ chồng và cho chồng hay chưa. Cũng phải coi chừng người nhà có được chăm sóc đầy đủ chưa.

8.- Trước khi đi ngủ phải quan sát nhà cửa, xem người nhà đã làm xong việc chưa, cha mẹ chồng đã đi ngủ chưa.

9.- Phải xem chồng và cha mẹ chồng như lửa. Mỗi khi làm việc với chồng và cha mẹ chồng phải hết sức thận trọng như khi làm việc với lửa.

10.- Chồng và cha mẹ chồng phải được coi như những vị trời trong nhà.

Tình thương của Visākhā bao trùm đến cả loài thú. Một đêm, hay tin con ngựa cái ở vườn sau sắp đẻ, cô tức khắc cùng các nô tỳ đốt đuốc ra tận chuồng và hết lòng chăm sóc ngựa cho đến khi nó đẻ xong mới vào nhà đi ngủ.

Ngày nọ, ông cha chồng đang ngồi ăn một món cháo rất ngon. Ngay lúc ấy có một vị Tỳ-kheo vào nhà khất thực. Visākhā đứng sang một bên để cha chồng trông thấy nhà sư. Thấy cha chồng làm lơ, Visākhā bạch với vị Tỳ-kheo: “Bạch sư, thỉnh sư qua nhà khác. Cha chồng tôi đang dùng những món ăn thiu”. Tức giận, cha chồng truyền gia đinh đuổi Visākhā ra khỏi nhà.

Visākhā lễ phép thưa:

- Không phải cha đem con về như người mua nô lệ. Trong lúc cha mẹ còn sanh tiền, con gái không thể bỏ nhà chồng ra đi như vậy. Xin cha cho mời tám người trong thân tộc đến xét xử xem con có lỗi hay không?

Nhà triệu phú chấp thuận lời đề nghị hữu lý ấy, cho mời tám vị thân nhân kia lại phân trần:

- Nhân một ngày lễ, tôi đang ngồi ăn cháo nấu với sữa đựng trong một cái chén vàng mà con dâu tôi nói tôi ăn đồ không sạch. Xin các vị vạch lỗi nó và đuổi nó ra khỏi nhà.

Visākhā giải thích:

- Tôi không nói đúng hẳn như vậy. Lúc cha chồng tôi dùng cháo thì có một vị Tỳ-kheo đến khất thực. Cha chồng tôi thấy mà làm ngơ. Tôi nghĩ bụng cha không làm được điều thiện nào trong hiện tại mà chỉ thọ hưởng phước báu đã tạo trong quá khứ nên tôi đã bạch với vị Tỳ-kheo là: “Bạch sư, thỉnh sư qua nhà khác. Cha chồng tôi đang dùng những món ăn thiu”.

Mọi người nhìn nhận Visākhā không có lỗi. Ông cha chồng cũng đồng ý nhưng chưa hết giận, bắt tội cô giữa đêm khuya mà đi ra sau vườn. Một lần nữa, Visākhā giải thích vì sao cô làm vậy. Chưa chịu ngừng, ông cha chồng bắt qua chuyện cô học 10 điều trước khi về nhà chồng, lấy ví dụ “Không đem lửa trong nhà ra ngoài ngõ” là không được sống với láng giềng khi họ cần mồi lửa. Nhân cơ hội, Visākhā giải thích rành rẽ từng điều và sau khi đã chứng minh mình không có lỗi, cô tỏ ý muốn ra đi theo lời cha chồng đuổi.

Nhà triệu phú đổi hẳn thái độ, xin lỗi cô vì đã hiểu lầm và sau đó, đồng ý theo lời xin của cô, cho cô được tự do sinh hoạt theo truyền thống tôn giáo của mình. Cô đã thỉnh đức Phật về nhà thọ trai. Sau khi thọ thực, Phật thuyết một thời pháp. Ông cha chồng tò mò nghe trộm và được đắc ngay quả Tu-đà-hoàn.

Khi Visākhā sinh được một con trai, đức Phật được cung thỉnh đến tư gia thọ trai và bà mẹ chồng sau thời pháp cũng đã đắc quả Tu-đà-hoàn. Nhờ khôn khéo, trí tuệ và nhẫn nại, cô dần cảm hóa được nhiều người và chuyển hóa cả gia đình bên phía nhà chồng trở thành một gia đình Phật giáo, sống an vui, hạnh phúc.

Một lần, sửa soạn đến tịnh xá lễ Phật và nghe pháp, Visākhā mặc bộ đồ đẹp nhất của cha cho nhưng nghĩ như thế không thích nghi nên đã thay trang phục khác, gói chiếc áo kia giao cho người nữ tỳ cầm giữ. Sau khi nghe pháp, họ ra về bỏ quên lại gói đồ. Ngài Ananda nhìn thấy và theo lời dạy của Phật đem cất, chờ trao lại cho chủ. Khi Visākhā biết việc bỏ quên gói đồ, sai người nữ tỳ trở lại lấy đem về nếu chưa có ai động đến. Còn nếu có ai đã chạm đến gói đồ thì thôi. Người nữ tỳ trở về thuật lại tự sự. Visākhā sau đó đến hầu Phật và ngỏ ý muốn làm một việc thiện với số tiền bán bộ y phục đó. Đức Phật khuyên nên cất một tịnh xá phía Đông cổng vào.

Vì không có ai đủ tiền mua bộ y phục quý giá đó nên Visākhā đã mua lại, dùng số tiền trên kiến tạo ngôi tịnh xá Pubbārāma rộng rãi, được Phật chấp thuận nhập hạ sáu lần nơi ấy. Kinh sách ghi lại rằng thay vì la rầy người tỳ nữ vô ý kia, Visākhā lại chia phần công đức kiến tạo ngôi tịnh xá cho nữ tỳ đã tạo cho Visākhā cơ hội cúng dường.

Visākhā đã đóng góp nhiều lĩnh vực Phật sự khác nhau. Đôi khi đức Phật dạy bà đi giải hòa những mối bất đồng giữa các tỳ-kheo-ni. Cũng có lúc Visākhā thỉnh cầu đức Phật ban hành một vài giới cho chư vị tỳ-kheo.

Do phẩm hạnh trang nghiêm, tư cách thanh nhã, thái độ tế nhị, ngôn ngữ khéo léo, do biết vâng lời và tôn kính bậc trưởng thượng, quảng đại với người kém may mắn, lịch duyệt và tâm đạo nhiệt thành, Visākhā được lòng tất cả những ai đã được gặp.

Visākhā có 10 con trai, 10 con gái, tất cả đều hiếu thảo. Bà thọ 120 tuổi.■

[Tập San Pháp Luân.36.tr,58.2006]