Cứ mỗi độ Xuân về, những mầm xanh đâm chồi nẩy lộc, tỏa ngát trong không gian tĩnh lặng hòa vào hương sắc nhộn nhịp của ngày đầu Tết Nguyên Đán. Theo truyền thống Phật giáo, vào ngày mồng tám đầu năm, lễ hội Dược Sư được tổ chức thường niên, các chùa thường “khai đàn Dược Sư” hay còn gọi là “lễ Cầu an”.
Hàng xuất gia cũng như tại gia đều chuyên tâm cầu nguyện “Thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc”. Đặc biệt, có 49 ngọn nến thắp lên tượng trưng cho ánh sáng trí tuệ, đó là ánh sáng mầu nhiệm của đức Phật Dược Sư Lưu Ly, soi sáng đến cho nhân loại.
Dược Sư tiếng Phạn là Bhaisajyaguru, gọi đủ là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai hay còn gọi là Đại Y Vương Phật, Y Vương Thiện Thệ. Ngài là giáo chủ nước Tịnh Lưu Ly ở phương Đông, đã phát ra 12 thệ nguyện để cứu chữa bệnh tật cho chúng sanh vô minh ám độn. Đó là:
Nguyện thứ nhất: Nguyện thân ta và hết thảy các loài hữu tình đều có hào quang rực rỡ.
Nguyện thứ hai: Nguyện có quang minh rộng lớn, uy đức vời vợi để khai nguồn thông suốt cho tất cả chúng sanh.
Nguyện thứ ba: Nguyện cho chúng sanh không thiếu thốn, tùy theo lòng mong cầu mà được toại nguyện.
Nguyện thứ tư: Nguyện cầu hết thảy chúng sanh đều theo Đại thừa liễu nghĩa.
Nguyện thứ năm: Nguyện cho tất cả chúng sanh tu hành phạm hạnh thanh tịnh, giữ gìn đầy đủ Tam tụ tịnh giới.
Nguyện thứ sáu: Nguyện hết thảy chúng sanh đầy đủ thiện căn, trang nghiêm sáng suốt.
Nguyện thứ bảy: Nguyện cho tất cả chúng sanh thân tâm thường an lạc, chứng quả Vô sanh.
Nguyện thứ tám: Nguyện cho tất cả chúng sanh chuyển nữ thành nam đủ tướng trượng phu, tu chứng đạo Vô thượng.
Nguyện thứ chín: Nguyện cho các loài hữu tình được giải thoát mọi ràng buộc của Thiên ma ngoại đạo, tà kiến, ác kiến, dẫn dắt, thu nhiếp họ trở về chánh kiến.
Nguyện thứ mười: Nguyện cho tất cả chúng sanh giải thoát các tai nạn bất thường, giặc cướp, lấn hiếp của ác ma.
Nguyện thứ mười một: Nguyện cho chúng sanh bị đói khát được ăn uống ngon lành và no đủ. Sau đó đức Phật ban cho Pháp vị để dựng nên quả đức an vui.
Nguyện thứ mười hai: Nguyện hết thảy chúng sanh bị nghèo cùng khốn đốn đều được đầy đủ, đồ dùng quý báu trang nghiêm “Sở nguyện tùy tâm, sở cầu như ý”.
Thật vậy, 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư đã chấn động tam thiên đại thiên thế giới. Bất luận là xuất gia hay tại gia nếu chuyên tâm trì niệm, chiêm ngưỡng và lễ bái hoặc nhớ nghĩ đến hình tượng của Ngài đều có thể vượt qua tất cả chướng duyên trong cuộc sống, được thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm, đem lại niềm an vui tự tại cho chính mình và tha nhân. Phải chăng, đây là nền tảng khởi nguyên để đạt đến hạnh nguyện của người xuất gia tầm cầu giải thoát. Vậy hạnh nguyện độ sanh là gì?
Theo Từ điển Phật học Hán Việt, Hạnh nguyện dịch âm là Hành nguyện có nghĩa là hành động của thân và ý nguyện của tâm. Trong Thanh Long sớ quyển Hạ nói “Do Hành và Nguyện nương tựa vào nhau, cả hai đều tu không lệch bên nào”. Hay còn gọi là Hành nguyện cụ túc, có nghĩa là đầy đủ cả nguyện và hành. Vậy, Hạnh nguyện được giải thích tương đối súc tích, mang ý nghĩa sâu sắc và tính thực tiễn hiển bày. Ở đây, độ sanh là chỉ chung cho tất cả mọi loài, từ hữu tình cho đến vô tình chúng sanh, tất cả đều có thể vượt qua khổ ải luân hồi. Cũng có nghĩa là tế độ chúng sanh, độ thoát chúng sanh, dìu dắt chúng sanh từ nơi mê mờ đến ánh sáng rực rỡ bằng các phương tiện thiện xảo của chư Phật và Bồ-tát. Bởi vì, khổ là một thực trạng tâm lý mà chúng sanh phải thọ nhận, cũng là một thách thức cho bao thế hệ đã đi qua. Do đó, bằng ánh sáng trí tuệ, chúng ta phải tìm ra phương thức đoạn trừ nó. Hơn nữa, khổ đau là một yếu tố phổ cập bao hàm và ẩn chứa một ý nghĩa triết lý sâu xa, không phải chỉ biểu lộ chán đời hay bi quan mà còn là trạng thái đau khổ từ vật chất đến tinh thần.
Chúng ta sẽ từng bước tìm hiểu để nhận thức tường tận về đức Phật Dược Sư trên bình diện tâm linh cũng như củng cố niềm tin đúng với chánh lý.
TIN VÀO CÔNG NĂNG CỨU ĐỘ QUA ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯ
Mười hai đại nguyện của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khiến cho tất cả các loại hữu tình cầu gì cũng được. Bởi vì, 12 thệ nguyện là biểu thị cho công năng thực hành hạnh cứu khổ, hàm nhiếp cả Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) của chư Phật và Bồ-tát. Nếu nói về thần lực hành đạo thì đức Phật Dược Sư cũng có thể hóa thân làm Bồ-tát để cứu độ chúng sanh thoát khỏi mọi tai ách. Đặc biệt, Ngài chữa trị các căn bệnh tâm lý. Có người khi gặp tai nạn hay bệnh chứng khó qua khỏi cơn nguy biến liền niệm danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai hay đứng chấp tay quán tưởng hình tượng của Ngài liền được hóa giải mọi khổ đau. Từ đó, nếu chúng ta tu tập 12 hạnh nguyện trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi… mỗi mỗi đều nhất tâm, tất nhiên sẽ cảm nhận một cách vi diệu trong từng ý niệm tỉnh giác của tâm thức. Và từng ý niệm đó tác động đến cơ thể để vượt qua mọi tật bệnh. Ngày nay, khoa học đã công nhận “Nhân điện” là một phương thức trị bệnh. Họ có thể nhận thiên khí vào cơ thể con người, sau đó kết hợp năng lượng sẵn có để có thể chẩn trị mọi chứng bệnh. Thế nên, chúng ta là đệ tử của Phật sao không dùng pháp môn niệm Phật để điều hòa hơi thở và chữa trị những căn bệnh tự thân. Đối với những hành giả tu tập, trên lộ trình chứng đắc quả vị Vô thượng, tất nhiên cần phải thể nhập một cách hoàn hảo về 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư. Vì Ngài là biểu thị cho chân lý và nhân cách hoàn mỹ, là Bậc giác ngộ thành tựu Phật quả, làm giáo chủ ở cõi Tịnh Lưu Ly.
Đức Phật Thích-ca dạy: “Ở phương Đông có một thế giới đặc biệt, đời sống an lạc và hạnh phúc tương đương với thế giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà ở phương Tây. Này Mạn-thù-thất-lợi! Trong khi thực hành Bồ-tát đạo Ngài đã phát ra 12 đại nguyện làm cho tất cả chúng sanh có chỗ sở cầu đều toại nguyện.” Như thế, 12 thệ nguyện này có mãnh lực rất lớn đối với người tại gia cũng như xuất gia, nếu tu tập, trì tụng kinh Dược Sư hoặc niệm danh hiệu Ngài đều có thể vượt qua tất cả nguy hiểm như bị giam cầm lao ngục, bệnh tật liên miên… đều được an vui tự tại. Cho nên, Hòa thượng Thích Nhất Hạnh có dạy: “Đối với hàng xuất gia trong lúc tu tập, nếu bị sai lạc thì Ngài gia hộ cho chúng ta tu hành chơn chánh, không bị tà ma ngoại đạo quấy nhiễu. Hoặc đối với những người phạm giới phá trai, nếu chí thành cầu nguyện đức Phật Dược Sư thì sẽ được khôi phục lại giới thể, phát huy những hạnh lành, tu hành tinh tấn, chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề.”
Vậy, hạnh nguyện là món ăn tinh thần của mỗi hành giả, bởi vì chúng ta thường quan niệm “Sống phải có ý nghĩa, tu phải có hạnh nguyện.” Điều đó chứng tỏ rằng, trong việc mong cầu hạnh phúc an vui, người đệ tử Phật không thể thiếu hiểu biết, niềm tin và hạnh nguyện cũng như những gì thuộc về tâm linh. Phật giáo vẫn thừa nhận người tu hành chơn chánh sẽ được Thiên long, Bát bộ, Hộ pháp, Thiện thần hộ niệm, nhưng muốn đạt thành quả Phật thì phải áp dụng 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư trong đời sống tự thân. Những công đức hành trì đó có thể tự trị các bệnh tật.
CÔNG ĐỨC ĐỌC TỤNG VÀ TRÌ CHÚ DƯỢC SƯ
Trong cuộc sống bình nhựt, người xuất gia cũng như tại gia, nếp sống tâm linh ảnh hưởng rất lớn đối với tự tâm của mỗi người. Nếu hằng ngày chúng ta trì niệm, đọc tụng hoặc xưng danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì sẽ được ứng nghiệm ngay trong hiện tại. Đặc biệt, chú Dược Sư mang một ý nghĩa rất quan trọng khi chúng ta hành trì, vì không những vượt qua mọi khổ ách, mà sau khi mạng chung còn được sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly, dần dần tu chứng đạt được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Duyên khởi của thần chú Dược Sư, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã dạy cho Mạn Thù Thất Lợi Bồ-tát trong kinh Dược Sư Bổn nguyện công đức: “Này Mạn Thù Thất Lợi! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khi chưa chứng được đạo quả Bồ-đề, do sức bổn nguyện mà Ngài quan sát biết chúng hữu tình gặp phải các thứ bệnh khổ như da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt, thương hàn, v.v…”. Vì muốn những bệnh khổ ấy được tiêu trừ và lòng mong cầu của chúng hữu tình được mãn nguyện, nên Ngài liền nhập định tên là “Định diệt trừ tất cả các khổ não cho chúng sanh.” Khi Ngài nhập định, từ trong nhục kế phóng ra luồng ánh sáng lớn, trong luồng ánh sáng ấy nói chú Đại Đà-la-ni: “namo bhagavate bhaiṣaijya guru vaidurya prabharājāya tathāgataya arhate samyaksambuddhāya tadyathā: om bhaiṣaijye bhaiṣaijye bhaiṣaijya samudgate svāhā”
Phiên âm: “Nam-mô Bạc-già-phạt-đế, bệ-sát-xã, lũ-lô-thích-lưu-ly, bát-lặc-bà, hắc-ra-xà-giả, đát-tha yết-đa-da, a-ra-ha-đế tam-miệu tam-bồ-đề-da, đát-điệt-tha. Án, bệ-sát-thệ, bệ-sát-thệ, bệ-sát-xã, tam-một-yết-đế tóa-ha!! ”
Như vậy, công đức đọc tụng, hành trì chú Dược Sư rất vi diệu. Chúng ta có thể gặt hái những thành quả tốt đẹp ngay trong hiện tại. Bởi vì, đó là những âm thanh của chư Phật nói ra, có ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp điệu rung chuyển của làn sóng quang minh trong tâm thức chúng sanh. Từ đó, niềm tin được vững chắc, chú nguyện được viên mãn, chính là nhờ công đức bất khả tư nghì của bản nguyện Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Nhất là lúc lâm chung, chỉ cần nghe danh hiệu của Ngài liền có tám vị Bồ-tát đủ sức thần thông đến hướng dẫn sanh về thế giới Cực Lạc Tây phương, hoa báu trang nghiêm.
ẢNH HƯỞNG CUỘC SỐNG TINH THẦN TÍN NGƯỠNG
Phàm là con người ai cũng muốn sống một cuộc đời hạnh phúc an lành, cho dù là bần nông hay trí thức. Nhưng đường đời có bao giờ thuận theo ý muốn của con người. Do vậy, những vấn đề trong cuộc sống khó có thể giải quyết được, chắc chắn họ sẽ tìm đến tôn giáo. Điều đó có nghĩa là trong cuộc sống, tinh thần tín ngưỡng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm linh của mỗi cá nhân. Đa phần, niềm tin bị hạn chế bởi những người đặt nặng vật chất lên trên đời sống tinh thần. Vì thế, mặc dù hằng ngày có trì niệm, đọc tụng kinh Dược Sư, nhưng hiệu quả rất thấp, đó là vì họ không thành tâm thành ý. Mỗi hạnh nguyện có một công năng đặc thù, nếu trong đời này, bất cứ hành giả nào khi có tín tâm rồi nên phát nguyện sanh về cõi Tịnh Lưu Ly của đức Phật Dược Sư. Sự phát nguyện này, đòi hỏi hành giả phải ứng dụng 12 lời nguyện vào cuộc sống để phát huy công đức lành của tự tâm, đưa tâm mình thể nhập chân lý tuyệt đối.
Như vậy, niềm tin tín ngưỡng tác động đến hiện thực cuộc đời qua 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư. Thực sự, nó ảnh hưởng rất sâu sắc và vô cùng quan trọng trong cuộc sống hằng ngày của người đệ tử Phật. Những hạnh nguyện đó ví như những viên thuốc đặc trị tâm bệnh của chúng sanh và cũng là chân giá trị bất hủ. Bởi vì, sự hành trì hiện tại vẫn mang lại hữu ích cho hành giả tu tập “Bản nguyện công đức của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.”
HÌNH ẢNH BIỂU TRƯNG VÀ GIÁ TRỊ HIỆN THỰC
Theo hình tượng hiện nay, chân dung đức Phật Dược Sư được tín ngưỡng xưa nay có tóc xoắn ốc, tay trái cầm bình thuốc, tay trái phải kiết Ấn thí vô úy. Hai bên có hai vị Bồ-tát làm thị giả đó là Bồ-tát Nhật Quang và Bồ-tát Nguyệt Quang. Đây là hình tượng được gọi là Dược Sư Tam Tôn.
Về hình tượng tóc xoắn ốc là một trong những tướng tốt của đức Phật, tay cầm bình thuốc biểu thị cho ý nghĩa đức Phật Dược Sư có vô lượng công đức, báu vật và diệu pháp mầu nhiệm để giúp hành giả tu tập, chuyển hóa tự thân. Điều đặc biệt ở đây là tay phải Ngài kiết Ấn vô úy. Vô úy chính là không sợ hãi, hình ảnh đó với mục đích giúp cho chúng sanh có niềm tin vững chắc để thiết lập sự bình yên cho thân và tâm.
Hai vị Bồ-tát đứng hầu đức Phật Dược Sư là biểu trưng cho Căn bản trí (Nhật Quang Biến Chiếu) và Hậu đắc trí (Nguyệt Quang Biến Chiếu). Điều đó, xác định mọi phương tiện mà Ngài vận dụng đều phát xuất từ hai trí này. Hơn nữa, Lưu Ly là chỉ cho một trong bảy báu vật, đó là loại đá quý màu xanh. Màu xanh là biểu thị lòng từ bi và sự sống. Thế nên đức Phật Dược Sư là tổng thể, bao hàm mọi hình ảnh, có tác dụng khai phóng tâm thức hành giả. Từ ý nghĩa trên có thể khẳng định rằng mỗi chúng ta là mỗi đức Phật Dược Sư, nếu phát huy tận cùng công đức trí tuệ và diệu pháp nhiệm mầu của bản tâm.
Như vậy, từ hình ảnh biểu trưng đã làm nổi bật giá trị hiện thực. Đức Dược Sư Như Lai đã trang nghiêm tự thân và cõi nước của Ngài bằng 12 đại nguyện. Từ khi phát tâm, lập nguyện cho đến ngày chứng đắc quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác là cả quá trình hành Bồ-tát đạo. Đây là kết quả của sự nỗ lực, tinh tấn không ngừng trong việc tu tập, ban vui cứu khổ cho chúng sanh nhiều đời.
Ở đây, dựa trên 12 đại nguyện, chúng ta thấy đức Phật Dược Sư đã xây dựng mô hình Tịnh độ, trong đó lấy chúng sanh làm trung tâm để hoàn thiện bổn nguyện. Do đó, nội dung của mỗi lời nguyện đều nói lên mục đích cứu khổ chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng để Bồ-tát thực hiện viên mãn về hạnh nguyện. Hơn nữa, sự thành tựu của mỗi vị Phật, ngoài yếu tố hạnh nguyện, mục đích còn phải cụ thể hóa bằng hành động. Chính hành động lợi mình, lợi người là điều kiện căn bản để trang nghiêm cho báo thân Phật (Chánh báo) và cõi nước (Y báo) đạt đến hoàn bị.
Trên cơ sở đó, sự tôn kính lễ bái đi đôi với việc thực hành 12 đại nguyện sẽ giúp chúng ta xây dựng cõi nước trang nghiêm thanh tịnh như Ngài. Điều đó, hành giả phải hoàn thiện trên hai mặt nghiêm tịnh tự thân và trang nghiêm cõi nước. Về tự thân, chúng ta phải giữ gìn Tam tụ tịnh giới, thực tập thiền định, phát huy trí tuệ vô lậu để chuyển hóa những ý niệm tham muốn, hờn giận, si mê, ích kỷ, ghen ghét, chấp ngã, chấp pháp, v.v… trở về tự tánh sáng suốt, bình đẳng, thanh tịnh. Sự chuyển hóa đó cần phải thực hiện với tâm vô trú, vô hành. Đây cũng là cách kiến tạo thế giới Tịnh độ ngay trong lòng mình. Song song với việc hoàn thiện tự thân, hành giả còn phải tu tập hạnh Bồ-tát trên cơ sở 12 đại nguyện, lấy chúng sanh làm đối tượng, hướng dẫn họ đạt đến an lạc và giải thoát; Làm được điều này cũng có nghĩa là kết duyên quyến thuộc với chúng sanh, cùng sống chan hòa với ánh đạo, biến cõi Ta-bà thành cõi Phật.
Ngày nay, có những quan niệm, khuynh hướng và hành động đẩy nhân loại đến vực thẳm tương tàn, tương sát… nhất là nạn chiến tranh, khủng bố, thù hận, bệnh tật đang hoành hành. Là người Phật tử tại sao chúng ta không đem 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư ứng dụng trong đời sống tự thân cũng như xã hội, giúp họ một hướng đi đích thực, kiến tạo nền hòa bình, tự do và thịnh vượng?
Đức Phật Dược Sư là bậc Đạo sư đầy đủ diệu pháp, diệu dược, có khả năng hóa giải mọi khổ đau cho chúng sanh. Qua 12 hạnh nguyện cũng như sự thành tựu viên mãn về thế giới Tịnh Lưu Ly của Ngài, đã dạy cho chúng ta nhiều bài học vô giá, mang tính thực tiễn cao trên con đường tu tập và hành Bồ-tát đạo.
Tuệ Giác
[Tập san Pháp Luân - số 59, tr11, 2009]