Tứ thiền

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới, vì nghĩa này nên có nơi còn gọi là Định sắc giới.

Như chúng ta đã biết qua Tứ thiền, thì Tứ thiền có thể nhiếp thu cả tầm, từ, hỷ, lạc, các chi Tịnh lự. Trong đó chúng được phân bố theo thuộc tính cần thiết trong tu tập cho chính chúng mà hành giả phải theo tùy theo trình độ căn cơ mà thâm nhập tuần tự vào định của mỗi hành giả. Theo Tạp A-hàm 17 (Đ. 2, tr. 121b) thì thứ tự lúc hành giả vào chánh thọ Sơ thiền là đình chỉ ngôn ngữ, vào chánh thọ nhị thiền thì đình chỉ giác quán (tầm, tứ), vào chánh thọ tam thiền thì đình chỉ tâm hỷ, vào chánh thọ tứ thiền thì đình chỉ hơi thở ra vào; đó là những hình thức có được từ hành tướng hình thức của tứ thiền, còn nội dung ý nghĩa tư tưởng như các chánh định của tứ thiền như chúng tôi đã nói ở trên. Ở đây vì có sự sai biệt về hình thức cũng như ý nghĩa nội dung của chúng, nhất là sự thâu nhiếp của tịnh lự có sự khác biệt nên chúng được phân ra làm bốn loại: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền như trên; và cũng theo Tứ thiền này được phân ra mỗi loại thiền gồm có ba loại chi theo giá trị kết quả có được từ sự thực hành của hành giả đưa đến: Đối trị chi, Lợi ích chi và Tự tánh chi. Theo Câu-xá luận 28 (Đ. 29, tr. 145b), Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận 9 thì đem Tứ thiền phân ra ba loại gồm mười tám chi thiền: Ba loại thuộc Đối trị chi, Lợi ích chi và Tự tánh chi, còn mười tám chi thiền gồm có: Sơ thiền có năm chi, Nhị thiền có bốn chi, Tam thiền có năm chi và, Tứ thiền có bốn chi theo sơ đồ sau đây:

Sơ Thiền theo đối trị chi có hai chi là tầm (giác) tứ (quán), theo ích lợi chi có hai chi là hỷ và lạc, theo Tự tánh chi có một chi là tâm nhất tánh cảnh, tất cả gồm có năm chi.

Nhị thiền theo đối trị chi có một chi là nội đẳng tịnh, theo lợi ích chi có hai chi là hỷ và lạc, theo tự tánh chi có một chi là tâm nhất tánh cảnh, tất cả gồm có bốn chi.

Tam thiền theo đối trị chi có ba chi là hành xả, chánh niệm và chánh tri, theo lợi ích chi có một chi là lạc, theo tự tánh chi là tâm nhất tánh cảnh, tất cả gồm có năm chi.

Tứ thiền theo đối trị chi có hai chi là xả thanh tịnh và niệm thanh tịnh, theo lợi ích chi có một chi là chẳng có cảm giác khổ vui, theo tự tánh chi có một chi là tâm nhất tánh cảnh, tất cả gồm có bốn chi.

Ở đây, Sơ thiền thâu nhiếp cả năm chi tầm, tứ, hỷ, lạc; vì tâm nhất tánh cảnh là thể của tịnh lự tức là tam-ma-địa, cho nên tứ tịnh lự đều lấy nó làm tự tánh. Tầm, tứ còn dịch là giác, quán, là hai hình thức của thô và tế của tâm phân biệt, tức là tánh phân biệt của tâm thô gọi là tầm (giác); tánh phân biệt của tâm tế gọi là tứ (quán). Sơ thiền vì hai chi chưa lìa được sự phân biệt của thô và tế nên còn gọi là hữu tầm, hữu tứ (hữu giác, hữu quán). Nhưng hai chi hỷ, lạc lại được sinh ra nhờ từ sự ly dục, pháp ác bất thiện mà có được nơi tâm và thân, cho nên sơ thiền còn gọi là ly sanh hỷ lạc địa. Nhị thiền thâu nhiếp bốn chi nội đẳng tịnh, hỷ, lạc cùng tâm nhất tánh cảnh; tâm nhất tánh cảnh như trên đã nói là chi tự tánh của nhị thiền. Bên trong đều thanh tịnh (nội đẳng tịnh) vì nhị thiền đã lìa được tầm, tứ của Sơ thiền mà lòng tin bên trong trở nên trong sáng vì vậy cho nên lấy đó mà gọi tên, tức là vô tầm, vô tứ (vô giác, vô quán). Hỷ, lạc ở đây được sinh ra từ định nên Nhị thiền được gọi là định sanh hỷ lạc. Tam thiền thâu nhiếp năm chi hành xả, chánh niệm, chánh tuệ, thọ lạc cùng tâm nhất tánh cảnh. Vì Tam thiền xả bỏ hỷ lạc tối thắng của Nhị thiền mà trụ vào “hành xả” đối với phi khổ phi lạc cảnh giới, nhờ tiếp tục tu tập chánh niệm chánh tri nên sinh ra “ly hỷ diệu lạc”. Tứ thiền thâu nhiếp bốn chi hành xả, niệm thanh tịnh, phi khổ lạc thọ cùng tâm nhất tánh cảnh. Ở đây, Tứ thiền xả lạc vi diệu của tam thiền nên gọi là xả thanh tịnh, chỉ nhớ (niệm) đến tu dưỡng công đức nên gọi là niệm thanh tịnh, nhờ đó mà đạt được cảm thọ phi khổ phi lạc. Đối với hành giả lúc này ở trong trạng thái thiền định tâm nhất tánh cảnh và cứ như vậy tiến hành, cho nên được gọi là “Tự tánh chi” hay còn gọi là “Xả niệm thanh tịnh”. Và cũng theo Hiển Dương Thánh Giáo luận 19 y cứ vào Tứ thiền để đối trị lại đối với những chướng nạn cho hành giả chúng ta khi tu tập. Theo luận này thì Sơ thiền dùng để đối trị năm chướng ngại tham nhuế hại tầm, khổ, ưu, phạm giới cùng tán loạn; Nhị thiền dùng để đối trị năm chướng ngại tham, tầm tứ, khổ, trạo cử cùng định hạ liệt tánh của sơ thiền; Tam thiền dùng để đối trị bốn chướng ngại tham, hỷ, nhảy nhót cùng định hạ liệt tánh của nhị thiền; Tứ thiền dùng để đối trị hơi thở ra vào cùng năm chướng ngại tham, hỷ, lạc, tác ý cùng định hạ liệt tánh của tam thiền. Tóm lại, hành giả xa lìa dục ái, tâm tịch tĩnh mà tư duy suy xét, có tầm, tứ mà trụ vào trạng thái hỷ lạc đó là sơ thiền; khi hành giả xa lìa tầm, tứ, lòng tin trong sáng được hình thành, lúc này hành giả đang ở trong trạng thái của hỷ lạc thì đó gọi là nhị thiền; khi nào hành giả lìa hỷ lạc, chánh niệm chánh tri trụ vào trụ địa diệu lạc thì đó gọi là tam thiền; khi nào hành giả thoát ly khỏi lạc cả thân và tâm, trụ vào trạng thái bất khổ bất lạc, đạt được cái cực thiện thanh tịnh thì đó gọi là tứ thiền.

Hơn nữa, Tứ thiền này chính là định căn bản (maula- samàdhi), để hành giả nhập môn, có nơi còn gọi là cận phân định sàmantaka-samàdhi). Vì vị chí định (anàgamya-samàdhi) của cận phần sơ thiền đồng với căn bản định tương ưng cùng tầm, tứ nên hữu tầm, hữu tứ. Cận phần từ nhị thiền trở lên cũng đồng căn bản định đều không tầm, tứ, cho nên vô tầm, vô tứ. Còn trung gian định nhân của Đại phạm hơn sơ thiền, chỉ không bằng nhị thiền là vô tầm mà hữu tứ. Ở trong này, vị chí cùng tịnh đẳng chí của cận phần vì cùng vô lậu căn bản đẳng chí có thể đoạn trừ các hoặc, trong khi trung gian định không thể đoạn trừ các hoặc. Trong bốn tịnh lự này, vì sơ, nhị, tam tịnh lự có tám tai hoạn tầm, tứ, khổ, lạc, ưu, hỷ cùng hơi thở ra, vào nên gọi là hữu động định, trong khi tứ tịnh lự thì không có tám thứ tai hoạn đó để có thể dấy động, cho nên gọi là bất động định. Nhưng Sơ thiền có tướng phát nghiệp tương ưng với tầm tứ nên có thể thấy, nghe, xúc chạm, lại khởi lên ngữ nghiệp, song từ nhị thiền trở lên vì không tầm, không tứ nên không ngôn ngữ.

Tứ tịnh lự như trên chúng ta đã biết, vì tự thân của nó là định căn bản, nên nó là chỗ được các thứ công đức y cứ vào để phát triển, nếu theo tự thể của nó mà nói thì tứ vô lượng tâm, bát giải thoát, bát thắng xứ, thập biến xứ cũng nương vào nó mà phát khởi. Đối với Tứ vô lượng tâm mà nói thì, hỷ vô lượng tâm vì nhiếp thâu của hỷ thọ nên phải y cứ vào sơ, nhị tịnh lự, còn ba vô lượng tâm nữa thì chúng đều y cứ vào lục địa mà ly bốn chướng sân, hại, v.v… Đối với Bát giải thoát mà nói thì, sơ nhị là nương vào sơ và nhị tịnh lự, vị chí định cùng trung gian định mà có được; tịnh giải thoát của đệ tam là y cứ vào đệ tứ tịnh lự mà có được, ngoài đây ra, thì y cứ vào tứ vô sắc cùng diệt tận định. Đối với Bát thắng xứ mà nói thì, sơ và tứ thắng xứ là y cứ vào sơ và nhị tịnh lư, cuối cùng tứ thì y cứ vào tứ tịnh lự mà phát triển giá trị kết quả của chúng.

Hơn nữa, tứ thiền thiên của Sắc giới, cho đến nơi hành giả tu tứ thiền sẽ sinh về nơi đó thì từ thiền này gọi là định tịnh lự; ở đây một cách tương đối thì chư thiên ở đó tự nhiên mà họ được tứ thiền, nên được gọi là sanh tự lự. Ngoài ra, theo luận Trí độ 17 thì, đối với các đệ tử của đức Đạo sư, có một thầy Tỳ-kheo tuy nhờ ngồi thiền, trì giới mới được tứ thiền, nhưng cứ cho rằng việc tu tập của mình như vậy là hoàn thành, vì vậy mà thầy sinh ra tăng thượng mạn tư xưng là: “Ta đã đạt được bốn quả” (Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán), lại có hành động bất kính đối với đức Đạo sư qua ngôn ngữ và cử chỉ, nên sau khi mạng chung bị đọa vào trong địa ngục; vì nhân duyên này mà Tứ thiền còn gọi là Tứ thiền Tỳ-kheo.

Theo Pháp giới thứ đệ quyển hạ, thì Thiền có thể phân thành hai loại thế gian thiền và xuất thế gian thiền, trong xuất thế gian thiền còn phân ra hai loại thiền khác nhau đó là: Xuất thế gian thiền cùng xuất thế gian thượng thượng thiền: Loại xuất thế gian thiền dành cho các hàng Thinh Văn, Duyên Giác trong tu tập của mình, còn xuất thế gian thượng thượng thiền, loại sau thì dành cho các hàng Bồ-tát trong pháp tu tập của họ. Đây cũng chỉ là một hình thức tùy thuộc vào căn cơ và thuộc tính của khế cơ phù hợp với khế lý trong pháp tu đưa hành giả đi nhanh trong bước tu của họ. Theo kinh Pháp hoa huyền nghĩa 4 thì, lại phân xuất thế gian thiền ra làm bốn giai đoạn: quán thiền, luyện thiền, huân thiền, tu thiền cũng gọi là tứ thiền trong pháp tu tập của các hàng nhị thừa.

Tóm lại, vì Thiền định là một pháp tu thông dụng theo truyền thống của các tôn giáo Ấn Độ, nên mỗi thời đại từ xa xưa cho đến thời kỳ đức Đạo sư ra đời thì Tứ thiền vẫn là một pháp trọng yếu trong phương pháp tu tập của các học phái tôn giáo vào lúc bấy giờ. Đức Đạo sư cũng dùng Thiền định làm một hành pháp tối yếu trong tu tập, chính Ngài cũng dùng thiền định để thành đạo và khi nhập Niết-bàn cũng dùng pháp tứ thiền mà thành tựu chúng. Và vì đặc điểm của Tứ thiền là xa lìa cảm thọ dục, pháp ác bất thiện của cõi dục mà hành giả cùng quán tướng sắc giới tương ưng với cảm thọ và cũng nhờ lìa xa dục, pháp bất thiện của cõi dục mà hành giả chúng ta có được hỷ lạc xuất hiện để hoàn thành sắc giới định. Từ Sơ thiền cho đến Tứ thiền, mọi hoạt động tâm lý phát triển theo thứ tự từ thấp đến cao, thế giới trạng thái tinh thần hình thành không đồng tùy theo thuộc tính của chúng theo quá trình tự tu chứng của hành giả mà có được để chúng ta gọi tên, tức là ba thiền trước cần theo thứ tự phương tiện (đối tượng pháp tu), còn đệ tứ thiền mới chính là Thiền chân thật. Qua sơ thiền, khi hành giả ở trong thiền định này có thể đối trị tham nhuế, hại tầm, khổ, ưu, phạm giới là năm chủng loại làm chướng nạn trong tu đạo. Ngoài ra, ở trong định Sơ thiền dùng hoạt động tâm lý tầm tứ, cho nên có hoạt động của thấy, nghe, xúc lại có thể khởi lên ngữ nghiệp. Đến Nhị thiền, lúc hành giả ở trong Sơ thiền khi ngữ nghiệp còn khởi lên thì ở đây ngữ hành không còn nữa. Ngoài ra, sự tu tập đệ nhị thiền định có thể đưa hành giả đến quả báo sinh lên đệ nhị thiền thiên; vì thiên chúng của trời này an trụ vào thiền định mà sinh khởi ra cảm thọ hỷ lạc, nên trời này còn gọi là “Định sinh hỷ lạc địa”. Đến đây, nhờ hành giả đã xa lìa hỷ, lạc của nhị thiền định, song hành giả, cái vui vi diệu của tự địa vẫn còn tồn tại, cho nên trạng thái lúc này được gọi là “Ly hỷ diệu lạc”. Hơn nữa, ở trong định này có khả năng đối trị được bốn loại tham, hỷ, hớn hở, định hạ liệt tánh làm chướng nạn lúc tu đạo của đệ nhị thiền định. Khi hành giả tu tập thiền định này, có thể được quả báo đối với đệ tam thiền thiên. Tiến lên bậc cuối cùng của tứ thiền, vì hành giả ở nơi này đã lìa thoát diệu lạc của đệ tam thiền thiên mà chỉ có thể tu dưỡng công đức, nên ở đây gọi là “Xả niệm thanh tịnh địa”. Đó là trạng thái thiền trong thiền định đệ tứ mà hành đã đạt được trong đệ tứ thiền.

Thích Đức Thắng
[Tập san Pháp Luân - số 58, tr.3, 2009]