Một bóng người thoăn thoắt bước đi, thỉnh thoảng quay đầu nhìn sang hai bên đường ra vẻ tư lự. Vầng trán thanh tú có lúc khẽ nhíu lại, trầm ngâm nghĩ ngợi, thanh gươm đeo bên lưng lập loè sáng trong ánh nắng chiều đỏ quạch, càng mang dáng dấp của một chàng tráng sĩ thời thượng. Khi rẽ sang một con đường khác, tráng sĩ chợt dừng chân reo lên:
- “Lạ thật, nơi heo hút này lại có con đường rộng thoáng băng xuyên qua cả ngọn núi. Con đường đầy hoa, mà ai đã trồng lên dường như mang một ý nghĩa nào đó.”
Trời tối hẳn, mà Mạnh Trí, tên của tráng sĩ, vẫn còn loanh quanh dưới chân núi. Cơn đói đã qua, nhưng sương đêm nơi núi rừng hiu quạnh cũng làm cho lòng chàng se thắt buốt giá. Chàng đến gõ cửa một ngôi tịnh thất nhỏ nằm chơ vơ bên vách đá, vì nghe có tiếng chuông vọng ra từ bên trong. Vị sư mở cửa, thoáng nhìn qua người khách lạ rồi nhỏ nhẹ nói:
- Tráng sĩ ắt hẳn muốn tá túc qua đêm nơi Bổn tự? Vậy xin mời vào bên trong.
Chàng trai ngạc nhiên xong tự nghĩ: “Vị Sư chắc từng đón tiếp nhiều khách lỡ đường như ta, nên đã quen mà không hỏi han gì”.
Mạnh Trí thức giấc giữa đêm khuya khi vị Sư trở dậy đi công phu. Chàng trằn trọc mãi không phải vì mệt mỏi sau nhiều ngày dong ruỗi mà bởi bao ý nghĩ chập chờn cứ như làn sóng nhấp nhô xuống lên không dứt. Vị Sư vẫn còn trung niên, và ngôi Tịnh thất này cũng chỉ được tạo dựng sau này, rõ ràng không thể làm chứng nhân cho mọi sự việc xảy ra trước kia. Chàng lẩm bẩm: - Hừ! Ta đang muốn làm kẻ truy tìm lại một quá khứ tội ác đầy đau thương, thật chẳng dễ dàng gì, với chừng ấy thời gian trôi qua.
Vị Sư châm trà mời chàng cùng đối ẩm, không gian toả rộng theo vị trà thơm thoang thoảng. Chủ khách cùng yên lặng thưởng thức. Ngoài sân trời đã sáng. Một ngày bắt đầu nơi núi rừng mới yên tịnh làm sao. Tiếng chim hót líu lo, tiếng reo vi vu của suối ngàn thăm thẳm, và có cả tiếng nẩy mầm tươi vui của bao chồi xanh khi ánh dương vừa hửng đỏ. Một mùa hè nắng gắt lại đến mà Mạnh Trí vẫn còn làm kẻ lang thang nơi này. Mục đích thì rõ ràng, còn đầu mối thì mịt mù rối rắm đâu đâu…
- Thí chủ… Vị Sư lên tiếng sau một hồi cả hai cùng mật niệm bên chén trà đạo: Chắc từ phương xa mới đến đây lần đầu. Bần đạo xem qua thì người không phải là thương buôn?
- Vâng, bạch Thầy… Tôi đang đi tìm một người… Dạ! xin hỏi… Thầy mới đến đây ẩn tu… hay ở trước khi con đường được mở rộng dẫn xuyên qua núi. Tôi có hỏi thăm dân chúng thì được biết con đường do một vị Sư tự làm lấy trong nhiều năm… Người đó có phải là Thầy…
- Câu chuyện về con đường… nói ra thì dài lắm. Thí chủ uống trà thư thả rồi Bần đạo sẽ kể lại. Người khởi xướng và khổ công đục đá xuyên đường nhiều năm trời ròng rã chính là Sư Phụ của Bần đạo, Người vừa tịch cách đây một năm. Khi Bần đạo đến… thì con đường đã gần hoàn thành...
- Thầy vì lòng mến đạo tu hành mà đến đây?
- Không! Tôi tìm đến vì một nguyên do khác, để rồi sau đó bằng lòng ở lại làm một ẩn sĩ tu hành, an bần lạc đạo… Câu chuyện bắt đầu từ bốn mươi năm về trước…
Ở nơi Kinh thành xa xôi có một nhà võ sĩ tài danh lỗi lạc vang tiếng một thời. Trong nhà nuôi rất nhiều đệ tử và nô bộc. Ông có người thiếp trẻ, xinh đẹp nhưng tánh tình lẳng lơ quỷ quái. Cô ta ra sức quyến dụ một đồ đệ. Rồi một hôm, võ sĩ bắt gặp tại trận hai người cùng dan díu làm chuyện dâm loạn. Ông nổi giận, bắt người đệ tử ra giữa nhà, định chặt chân anh ta để trị tội. Nhưng, khi thấy võ sĩ còn rất giận dữ và lơ là việc canh chừng, anh ta vụt đứng dậy, giựt lấy cây thương đâm chết thầy mình, rồi cùng với người thiếp bỏ trốn.
Hai kẻ gian phu dâm phụ ấy đã cao chạy xa bay tìm đến một ngọn núi để chung sống với nhau. Một thời gian vì cô ả vốn quen sống trong nhung gấm bạc tiền, nên không thể chịu nỗi cảnh túng thiếu nghèo khổ. Thế là cô ta bức bách anh chồng phải làm một kẻ cướp của giết người. Hồi đó, nơi ấy có con đường mòn đi tắt qua biên giới, nên khách buôn vẫn thường hay qua lại, để rồi không ít người trở thành nạn nhân cho sự cuồng sát của gã, và lòng tham không đáy của mụ đàn bà kia. Gần mười năm trời họ đã giết không biết bao sinh mạng. Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đi ngang qua núi, trên mình người vợ đeo rất nhiều đồ trang sức quý giá. Người đàn bà lại bức ép anh chồng ra tay giết họ để cướp tài sản. Người đàn ông trong lòng không nỡ nhưng đành phải ra tay. Anh ta đuổi theo giết người vợ, còn người chồng thì chạy thoát được. Khi cầm trên tay những nữ trang của của người phụ nữ vừa bị mình giết, trong lòng gã hối hận buồn thương vô hạn. Thế là anh ta quăng hết mọi thứ vào bụi cỏ, chạy trốn cả người vợ ác quỷ.
Ông đến ngọn núi khác tu hành rồi trở thành Hoà thượng. Hằng ngày, ông tinh tấn tụng kinh niệm Phật và sám hối tội lỗi trước kia. Ngoài ra, ông còn vì dân chúng, sáng chiều cần cù đục đá làm đường thông qua núi. Như thế, trải qua hai mươi năm ròng, ông đã sáu mươi tuổi mà không lúc nào lơi lõng việc tụng kinh bái sám. Công trình đục đá làm đường cũng đi được chín phần mười. Quan địa phương và dân chúng quanh vùng rất cảm động về việc làm của Hòa thượng nên thường cho vài người đến phụ làm. Con đường ngày càng được khai thông rộng rãi, dân làng thuận tiện đi lại.
Lại nói về con của người võ sĩ trước kia, lúc ấy đã khôn lớn và cũng trở thành một võ sĩ có tiếng. Anh bèn đi tìm kẻ giết cha mình để phục thù. Khi đó, vị Tăng ra nhận tội, mong muốn được chết để sám tội nghiệp xưa. Nhưng dân làng một mực đứng ra bảo vệ ông. Hòa thượng bèn xin với tráng sĩ, cho mình làm đường xong rồi hãy giết. Võ sĩ không thể đợi, nên chờ đêm xuống, muốn đến ám sát ông. Lúc anh ta tới nơi thì thấy ông cật lực làm việc thâu đêm không nghỉ, nên cảm động, bèn ở lại phụ vị Tăng đục đá đắp đường, lòng thầm nghĩ: - Thôi thì hãy đợi làm đường xong, ta báo thù cũng không muộn.
Võ sĩ cùng với vị Tăng thường nỗ lực làm đường ngày đêm không nghỉ tay. Một năm trôi qua, chỉ còn hai người làm với nhau, và rồi con đường cuối cùng cũng được thông suốt. Lúc này cả hai đều cảm thấy rất vui mừng an lạc. Sau đó vị Tăng tụng kinh hồi hướng cho gia chủ và những người mình đã giết trước kia. Xong rồi ông mới bảo võ sĩ ra tay giết mình. Một năm qua, võ sĩ đã thầm thọ sự cảm hoá bởi cung cách sống, tu niệm và việc làm của vị sư, nên hầu như quên hết mối thâm thù xưa. Hơn nữa, cả hai người đang vui vì đã hoàn thành một công trình lợi ích nhân sinh. Dân làng lại rất tôn trọng cùng biết ơn vị Tăng.
Võ sĩ lúc này mới sực nhớ lại trọng trách của mình, bất chợt chàng khẽ thở dài thầm nghĩ: “Một người mang đầy tội lỗi cực ác trước kia, đã biết quy tâm hướng thiện, làm bao điều lợi lạc cho chúng sanh, quên hết cả bản thân mình, ra sức tu niệm, mà lại có dũng khí cải hối nhận tội. Ta vì mối thâm thù đại hận, cũng chỉ muốn hành xử với kẻ tàn ác mà thôi. Nếu giết ông thì có khác gì xâm hại một bậc tu hành chơn chánh. Dân làng sẽ không tha thứ mà lương tâm ta cũng không tha thứ cho mình.”
Thế là cả hai người cùng hòa giải, họ ôm nhau vui mừng và cùng khóc. Sau đó, chàng võ sĩ ấy đã ở lại xin xuất gia làm đệ tử của vị Tăng.
- Võ sĩ đó chính là thầy đây sao?
Mạnh Trí buột miệng kêu lên. Vị Sư hơi ngước nhìn chàng dò hỏi, rồi gật đầu nhẹ: - Phải! chính là Tôi. Nhưng tráng sĩ chắc là có tâm sự gì, trông người có vẻ khác thường khi nghe xong câu chuyện.
Chàng trai trẻ không trả lời, lặng lẽ đứng lên đi đến bên khung cửa sổ, nhìn chăm ra khu rừng trước mặt. Trời trong xanh tỏa ra những tia nắng vàng ấm áp đã quét sạch hết màn sương đêm bao phủ, cái khoảnh khắc của niềm tin và một sự thật phũ phàng, dường như quá sức chịu đựng của chàng. Vị tu sĩ vẫn ngồi yên. ông chờ đợi hay không muốn làm khuấy động dòng tâm tư của vị khách lạ. Đôi mắt tráng sĩ gần như bất động khi nhìn sang ngôi tháp của vị Hòa thượng vừa viên tịch mà sáng sớm nay chàng vừa ra đó nghiêng mình đảnh lễ.
- Hình như ngay từ đầu thầy đã nhận ra Tôi? Tráng sĩ cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn.
Vị Sư vẫn ôn tồn nói: - Chúng ta chưa từng biết nhau, nhưng tôi vẫn đoán được mục đích của Tráng sĩ khi đến đây. Trước lúc viên tịch Thầy tôi có căn dặn: “Rồi sẽ có con cháu của những người mà Thầy đã sát hại trước kia tìm đến để báo thù, chỉ tiếc là ta không còn để trả nợ cho người. Con hãy nói với họ là ta xin tạ tội với tất cả. Đời đời sanh ra nguyện tu hành hồi hướng cho bao người nằm xuống dưới lưỡi đao của người, và dầu có chịu trăm ngàn lần đâm chém, ta cũng vui lòng...”
Mạnh Trí mím môi nói lớn: Hừ! Chỉ nói mấy lời như vậy là có thể xoá hết tội ác và lòng thù hận của người ta sao. Mẹ tôi, chính là người phụ nữ cuối cùng làm ông ta chùng lòng, vậy mà ông cũng đang tâm ra tay giết hại, để mãi mãi tôi trở thành đứa trẻ mồ côi khi chưa tròn tuổi. Tôi lớn khôn nghe cha kể lại và quyết tâm đi tìm kẻ thù. Tôi đã bỏ bao công sức để luyện công học võ và tìm kiếm, nhưng khi đến nơi thì ông ta không còn.
- Thì ra cậu là con của người phụ nữ đeo đầy đồ trang sức ngày đó. Cái chết của mẹ cậu đã làm cho Thầy hối hận ray rứt vì tội ác của mình, và đã làm cho Người hướng theo một con đường khác. Tôi cũng từng nằm trong hoàn cảnh đó, nên hiểu rõ lòng hận thù đau khổ của một đứa con trước một kẻ đã sát hại cha mẹ mình. Bây giờ người mất rồi, tội ác đã tạo trước kia, dù tu hành tinh tấn và chứng ngộ thì dư báo Người vẫn sẽ trả. Cậu có nhìn thấy tháp của Hòa thượng rồi chứ. Chính dân làng đã xây lên để tưởng niệm ân đức của Người. Cậu có thể trút hết hận thù mình lên đó, chửi mắng hay đập phá gì cũng được…
- Thầy bảo tôi xúc phạm vào linh tháp của bực tu hành để mắc tội đọa à!
- Cậu nghĩ được vậy là tốt. Đó cũng là ý tưởng của tôi khi đặt chân đến nơi này. Một người từng giết cha, và bây giờ là thầy của mình. Tôi được cảm hoá bằng giá trị của một tâm hồn luôn biết sám hối hướng thiện, xã thân vì nhân thế… Khi đi lại trên con đường phía trước đó, tôi đã nghĩ như vậy. Hòa thượng đã trồng hoa hai bên đường và gọi là con đường Hoa Đạo. Con đường không chỉ mang lại nhiều tiện ích cho nhân sinh, mà nó còn chứa đựng mọi giá trị tâm linh cao cả, mà những ai đi trên đó đều cảm thấy thật an lành hạnh phúc như trở lại chốn quê xưa…
Khi những cánh hoa mùa hạ vừa chớm nở dọc theo hai bên đường Hoa Đạo, Người ta thấy chàng tráng sĩ mang gươm ngày nào lần bước xuống núi, hai tay buông thỏng, vẻ mặt sáng ngời tươi tắn, gần như xoá hết những vết nhăn ưu tư của lúc mới đến. Chàng đi trở lại con đường cũ… nơi đã đưa chàng tới bờ bình yên sau nhiều ngày tìm kiếm xuôi ngược. Lúc này, lòng chàng thật thanh thản vì không còn mang nặng mối thù sâu. Thanh gươm tung hoành của đời tráng sĩ cũng đã gác lại… bên dưới chân ngọn tháp của vị tăng vốn mang đầy ân oán với cuộc đời.■
Nguồn: Tập san Pháp Luân 26, tr.64, 2006