Cuối năm, trời trở nên rét hơn. Những cơn gió từ sông thổi vào mang theo hơi nước lạnh buốt.
Cuối năm, trời trở nên rét hơn. Những cơn gió từ sông thổi vào mang theo hơi nước lạnh buốt. Đứng ở gác chuông nhìn ra, con sông mùa này trông mênh mông và quạnh quẽ. Trời còn sớm nhưng bến sông đã vắng. Dòng sông lặng lẽ, im lìm dưới lớp mưa bụi giăng giăng.
Tôi yêu con sông này vì sự hiền lành lẫn chút hoang sơ của nó, hơn nữa dòng sông đã để lại trong tôi thật nhiều dấu ấn về những tháng ngày thơ ấu. Nơi đây, tôi đã chứng kiến bao biến động thăng trầm của những thân phận con người giống như dòng sông lúc lở lúc bồi, quằn mình gánh chịu tất cả mọi vui buồn của trời đất.
– Mấy năm rồi Nguyên Chương không về nhỉ?
Tiếng Nguyên Hải thì thầm khi tôi đang mãi nhìn lớp khói sóng đang bốc nhẹ trên mặt sông.
– Từ sau ngày Thầy mất. Tôi đáp.
– Vậy là sáu năm. Hải nhẩm tính rồi nói.
À, thì ra Hải đang nhớ về Chương. Tôi và Nguyên Hải mỗi năm gặp nhau ở chùa một lần vào dịp cuối năm. Đứa ở Huế ra, đứa ở Nam về. Mỗi lần như vậy, chiều nào tôi và Hải cũng kéo nhau ra gác chuông, ngồi đấy nhìn dòng sông và kể với nhau một vài chuyện gì đó mà mỗi người đã gặp trong những tháng ngày rong ruổi. Và mỗi lần như thế, chúng tôi cũng không thể không nhắc đến Nguyên Chương, một người bạn đầy cá tính với cõi lòng luôn mang nặng buồn khổ.
Tôi, Hải và Chương xuất gia cùng một năm. Tôi và Chương cùng tuổi còn Hải nhỏ hơn một. Hải người cao ráo, khôi ngô. Khuôn mặt lúc nào cũng rạng rỡ với nụ cười như chưa bao giờ biết buồn. Hải học sau tôi và Chương một lớp. Chú chăm chỉ và học khá giỏi. Ba năm học Trung học, năm nào tôi cũng thấy Hải nhận phần thưởng kèm tờ giấy khen biểu dương học sinh tiên tiến. Thầy tôi rất hài lòng về Hải, nhưng không phải ở sở học mà ở sự vô tư và trong sáng của Hải. Ở chùa, Hải siêng năng, cần mẫn; học cũng như làm khi nào cũng hết mình. Hải sống không bao giờ làm ai giận và cũng chẳng bao giờ giận ai. Chú ít bận lòng đến bất cứ điều gì, tự tại như một người đắc đạo. Đặc biệt hơn, Hải có một niềm tin rất mãnh liệt vào đạo, và chính niềm tin đó đã giúp cho Hải cảm thấy an ổn khi bước trên con đường mà mình đang đi.
Những tính cách của Hải hoàn toàn không có ở Chương. Chương trầm lặng và ít nói, đôi mắt sâu buồn, xa xôi. Ở Chương phảng phất chút lãng mạn của một nhà thi sĩ, lẫn chút tư duy khô người của một triết gia. Chương học giỏi, thông minh. Chương học gì, làm gì cũng tỏ ra xuất sắc, nhưng Thầy tôi chưa bao giờ hài lòng về điều đó. Nét mặt trầm buồn và những tiếng thở dài kín đáo của Chương đã làm thầy tôi bận lòng.
– Hình như con có điều chi không vui? Thầy tôi hỏi.
– Bạch Thầy, không ạ! Chương trả lời.
– Sao con lại tự dối lòng như thế! Cuộc sống ở chùa không đem lại cho con chút niềm vui nào sao?
Chương cúi đầu im lặng.
Chương ham học và học tất cả những gì mà mình thích. Chương xin thầy đi học vẽ. Thầy tôi không tán thành nhưng cũng không phản đối. Chương học khá nhanh và vẽ đẹp. Bức tranh đầu tiên Chương vẽ về dòng sông trước chùa. Bức tranh buồn bởi việc diễn đạt cảnh tượng và sử dụng gam màu. Thầy tôi nhìn bức tranh lắc đầu.
Chương thích làm thơ và làm cũng khá hay. Thầy tôi rất bực mình khi đọc thơ Chương.
– Sao con lại ưa than vãn như vậy, rồi con sẽ khổ cả đời. Cái khổ do những vết thương bởi chính con tạo ra nơi cõi lòng con chứ không phải do ai gây ra cả. Thầy không muốn đọc những bài thơ thế này, càng không muốn con phí sức vào những bài thơ vô bổ đó… Người ta thích cải đổi thế giới, cải đổi cuộc đời mà không thích cải đổi tâm mình. Sao con không nhổ sạch những khổ đau phiền muộn nơi tâm con trước khi mong muốn cải đổi con người và thế giới. Than thân trách phận liệu có ích gì?
Chương có thói quen thích ra ngồi ở lầu chuông để ngắm sông vào lúc hoàng hôn, đôi khi lại lang thang xuống tận bờ sông. Chương thường làm như vậy một mình nhưng thỉnh thoảng lại rủ tôi và Nguyên Hải cùng đi. Có lần Chương hỏi tôi:
– Chú có thích con sông này không?
Tôi cười. Chương nói tiếp:
– Người ta có thể học hỏi được rất nhiều từ dòng sông đấy.
Nghe thế, Hải cười và nói xen vào:
– Và chú cũng đang học hỏi từ dòng sông này - học để rồi chú luôn cảm thấy khổ sở, bất an chứ gì? Chú có vẻ giống triết gia đấy, chắc nhiễm Hermann Hesse rồi.
– Tui không bao giờ nhiễm Hermann Hesse, cũng không thích bắt chước ai cả. Thầy thường dạy tui phải nên học theo cách sống của chú nhưng tui không thể nào. Mỗi người đều có một thân phận riêng.
Hải vô tư và ít hiểu Chương. Hải cứ nghĩ rằng con người có thể rủ sạch mọi muộn phiền một cách dễ dàng như rủ một chiếc áo bụi. Hải không hiểu vì sao Chương lại buồn khổ như vậy khi cuộc sống này không có gì để Chương buồn cả! Hải đâu biết rằng, nỗi khổ đau của con người rất đa dạng, dễ sinh khởi nhưng lại khó đoạn trừ. Không phải chỉ vài lời khuyên, vài lời động viên là có thể thay đổi được Chương. Chừng nào những hạt giống của khổ đau còn ngự trị, còn được nuôi dưỡng, và chừng nào tư tưởng của Chương chưa được khai thông thì nỗi đau đó vẫn còn xâm chiếm cõi lòng của Chương. Thay đổi tư tưởng còn khó hơn dời núi lấp sông. Hải ít hiểu Chương. Chương biết điều đó, nên đối với Hải, Chương luôn xem như một người em hơn là một người bạn. Cho dù thế, Chương vẫn rất thương Hải. Và cả ba chúng tôi đều sống chung với nhau một cách êm ấm, hòa thuận.
Rồi biến cố xảy ra. Thầy chúng tôi qua đời. Ngày đó Hải khóc lu loa như một đứa trẻ. Chương vốn đã trầm lặng nay càng trầm lặng hơn; đôi mắt quầng thâm, mặt đanh lại một cách đau đớn, chịu đựng. Tôi buồn đau vì sự ra đi quá vội vàng của Thầy tôi và xót xa nghĩ đến thân phận của mình trong những ngày sắp đến, nhưng lòng tôi càng nhói đau hơn khi nhìn thấy Chương. Tôi cứ nghĩ sau biến cố này thế nào Chương cũng hoàn tục, nhưng sự việc lại không xảy ra như vậy. Sau đám tang Thầy tôi, chúng tôi được sắp xếp đưa vào Huế học Trung cấp Phật học. Hải vâng lời một cách ngoan ngoãn. Tôi chưa muốn đi nên lấy cớ qua chung thất Thầy rồi sẽ vào. Chương thì trầm ngâm suy nghĩ, không đồng ý cũng không từ chối. Trước ngày Hải vào Huế, chúng tôi gặp mặt và nói chuyện với nhau thật nhiều. Sáng sớm hôm sau, tôi đạp xe chở Hải lên bến xe. Hải dặn tôi:
– Chú phải vào Huế nhé, em chờ chú đấy.
Tôi cười. Xe chạy. Chợt thấy lòng buồn khôn tả…
Hai tháng sau, một chiều, Chương rủ tôi ra sông chơi. Con sông mùa hè nước cạn và trong vắt. Những đám mây bồng bềnh trôi vô định trên không in hình xuống nước lung linh, kỳ ảo.
– Chắc tui phải đi chú ạ. Chương mở lời.
Tôi im lặng một lúc rồi hỏi:
– Chú định vào Huế hay đi đâu?
– Tui không vào Huế. Có lẽ tui sẽ vào Sài gòn và thi vào một trường đại học nào đó.
– Tui không dám khuyên chú vì tui đã quá hiểu chú, nhưng nhớ lại lời Thầy, tui cảm thấy ái ngại. Không biết chú vào trong đó rồi sẽ thế nào? Trông chú lúc nào cũng có vẻ buồn khổ, không biết khi nào mới thấy chú vui lên được?
Nghe tôi nói, Chương thở dài:
– Tui thật có lỗi với Thầy và với chú quá. Nhưng chú này, khổ đau có phải là một cái gì đó xấu xa lắm không? Đôi khi tôi nghĩ đau khổ cũng cần thiết cho con người đấy. Tình thương và lòng vị tha dễ nảy mầm trên khổ đau hơn là trên hạnh phúc… Nếu Siddhattha không biết gì đến khổ đau thì có lẽ không bao giờ có đạo Phật. Nói vậy không phải để biện hộ cho mình đâu nhé…
Chương nhìn tôi, cười và nói tiếp:
– Chú yên tâm, một ngày nào đó chú sẽ thấy một Nguyên Chương hoàn toàn khác, tột đỉnh của đau khổ là khởi điểm của giải thoát mà…
– Tui thật không muốn nghe thứ triết lý đó chút nào. Nhưng thôi, cứ hy vọng như vậy đi.
Chương vỗ vai tôi và cả hai rời bờ sông.
Hôm sau, Chương vào Huế để thăm Hải. Tôi ở nhà sắp xếp hành lý cho Chương. Hành lý của Chương không có gì ngoài mấy quyển sách và vài ba bộ đồ. Chương ở Huế ra, tôi hỏi:
– Hải thế nào?
– Khỏe, nhưng khóc như một đứa con nít. Chương đáp, mặt quay đi.
Hai ngày sau, tôi lại chở Chương lên bến xe. Chương nhìn tôi và hỏi:
– Khi nào chú đi?
– Tui chưa tính. Tôi trả lời.
– Tui không biết nói gì với chú lúc này… Khi nào chúng ta sẽ gặp lại nhau nhỉ?
Chương nói, mắt đỏ hoe. Lần đầu tiên tôi thấy Chương xúc động như vậy.
***
Gió từ sông thổi vào càng lúc càng mạnh, trời mưa lớn và rét hơn. Hải vừa xoa tay vừa nói:
– Sắp hết lạnh rồi đấy, thường khi nào cũng vậy, cuối một đợt rét trời thường lạnh hơn lúc bắt đầu - tết thế nào cũng nắng.
Thật vậy ư? Tại sao trời phải rét đậm hơn trước khi bắt đầu nắng?! Sao tôi không biết điều đó nhỉ? Trời đất kia cũng phải đau đớn khi chuyển giao sao? Tôi lại nghĩ đến Chương và những gì chú đã nói với tôi ở bờ sông trước khi ra đi. Tôi tin lời Chương. Một ngày nào đó, tôi sẽ thấy một Nguyên Chương hoàn toàn mới, một Nguyên Chương không còn những khổ đau ngự trị tâm hồn, một Nguyên Chương như cơn nắng sẽ lên sau những ngày đông mưa rét. Tôi nhìn ra sông rồi nhìn Hải. Hải cười, nụ cười rạng rỡ, ấm áp. Tôi cảm thấy lòng mình dịu lại. Vậy là sắp hết rét, rồi nắng sẽ lên và mùa xuân sẽ về.
Nguyên Đức.
[Tập san Pháp Luân - số 12, tr.85, 2005]