Có lẽ do ảnh hưởng huyền thoại Quán Âm Thị Kính trong nhân gian đã tạo ra một số suy nghĩ sai lầm về việc xuất gia của nữ giới xưa nay.
Có lẽ do ảnh hưởng huyền thoại Quán Âm Thị Kính trong nhân gian đã tạo ra một số suy nghĩ sai lầm về việc xuất gia của nữ giới xưa nay. Đa số cho rằng, cứ khi một cô thiếu nữ thất tình là xuất gia đầu Phật.
Truyện Quán Âm Thị Kính cũng như các tựa đề nổi tiếng khác của sân khấu Việt Nam như Vương Thúy Kiều, Lan và Điệp, Nắng Chiều,… đã vô tình tạo ra sự hiểu lầm về giới xuất gia là do thất tình, chán nản hoặc bị hoàn cảnh cuộc sống ép buộc.
Tuy câu truyện đã không tránh được sự hiểu lầm về việc vô chùa của Thị Kính, nhưng có lẽ cốt truyện đã bù trừ được phần lớn mang tính cách giáo dục qua đức hạnh của một người đàn bà vô cùng vĩ đại và từ bi, tìm đường sống trong cõi chết.
Huyền thoại nói về Quan Âm Thị Kính do một tác giả vô danh biên soạn dưới hình thức thơ “thượng lục hạ bát”, có lẽ xuất hiện vào thế kỷ thứ XIX. Cốt truyện làm sáng tỏ thuyết Luân hồi, nói rằng kiếp người không thể nào liễu sanh thoát tử khi chìm đắm trong năm loại dục: tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, thức ăn và ngủ nghỉ, mà phải luân hồi sanh tử trong thời gian “hằng hà sa số kiếp” đến khi quay về con đường chánh đạo mới thôi.
Trước đó vào kiếp thứ chín, đức Quán Thế Âm là đấng nam nhi tu hành gần đắc đạo:
Vốn xưa là đấng nam nhi
Dốc lòng từ thuở thiếu thời xuất gia. (Vô danh)
Nhưng Ngài phạm vào một lỗi, theo luật nhân quả phải sinh ra vào kiếp thứ mười thành thân nữ nhi, trải qua bao nhiêu nỗi oan tình để được thử thách:
Bụi trần rũ sạch, thói tà rũ không
Đức Mâu Ni xuống thử lòng,
Hiện ra một ả tư dung mỹ miều.
... Lỡ lời mà lại vịn ngay lấy lời.
Cho ra làm kiếp thứ mười,
Thử ai đày đọa một đời xem sao? (Vô danh)
Ngài được đầu thai làm con gái trong một gia đình họ Mãng ở nước Cao Ly (bán đảo Triều Tiên ngày nay), và được đặt tên là Thị Kính. Thế là trong kiếp thứ mười, Thị Kính phải gặp nhiều điều oan nghiệt.
Lên lấy chồng, phải xa lìa cha mẹ
Tưởng ơn trời bể mông mênh
Dễ mà đếm được ân tình ấy đâu. (Vô danh)
Lấy chồng tên là Thiện Sĩ được ba năm, vì thương chồng nên cắt sợi râu mọc ngược của chàng mà bị cha mẹ chồng ngờ là có ý toan sát phu. Trước điều oan nghiệt, nàng cố gắng chịu đựng mà không oán trách. Bị cha mẹ chồng (công cô) gieo tiếng oan và đuổi về nhà cha mẹ ruột, nàng chỉ biết khóc vâng lời:
Lòng nàng xiết nỗi xót xa,
Má đào ủ dột, mặt hoa âu sầu.
Lạy công cô đoạn rồi sau lạy chồng.
Như tuôn giọt lệ ròng ròng,
Nín hơi thổn thức, giả lòng sau xưa. (Vô danh)
Thương cha mẹ, nhớ chồng mà không được sống bên nhau, cái cảnh mà: “...quân tại tương giang đầu, thiếp tại tương giang vĩ, tương tư bất tương kiến, đồng ẩm tương giang thủy...” (Khúc Trường Tương-Tư) quả thật là khổ. Đây là khổ “ái biệt ly”, một trong các thứ khổ trong phần Khổ đế của Tứ diệu đế trong Phật giáo.
Rời nhà ra đi, nàng phải giả trai vào Văn Tự xin xuất gia. Sư ông hết lời khuyên dạy Thị Kính:
Sư khen rằng: Kẻ nho phong,
Đã suy đến chữ sắc, không đấy mà!
Kìa bào, kìa ảnh, phút qua
Kìa sương, kìa chớp, kìa là chiêm bao
Lọ là tranh trí thấp cao,
Kẻ xem khoái chí, người gào thất thanh
Mấy ai lấy nhục làm vinh
Trăm năm là nắm cỏ xanh rì rì
Sao bằng vui thú liên trì,
Dứt không tứ tướng, sá gì nhị biên. (Vô danh)
Với tên gọi là tiểu Kỉnh Tâm, nàng đi tu mong dứt được nợ trần, nào ngờ gặp ả Thị Mầu, con gái phú ông đem lòng yêu trộm, lẳng lơ trêu ghẹo và vu cho tội “phá giới” với ả. Nhưng đâu ai biết rằng, tác giả của cái bào thai đang lớn dần trong bụng của con người lẳng lơ kia là của một kẻ ăn người ở trong nhà của ả!
Khi đứa nhỏ chào đời, Thị Mầu mang con đến chùa giao cho Kỉnh Tâm nuôi để làm nhục. Kỉnh Tâm vì tính thương người, nhận đứa trẻ vào nuôi dưỡng. Sư ông dạy Kỉnh Tâm mang đứa bé ra sống tạm ngoài hiên cổng tam quan để tránh lời thị phi không tốt cho nhà chùa. Mỗi ngày Kỉnh Tâm đi vào xóm xin nước cháo nuôi đứa bé, nàng bị người đời mỉa mai, gièm pha. Khi đứa trẻ lên ba tuổi, Kỉnh Tâm bị bệnh nặng. Khi biết mình sắp chết, Kỉnh Tâm đã viết một bức thư dặn dò đứa bé đưa thư cho sư ông và ông bà họ Mãng.
Sau khi nàng lìa đời, đọc thư để lại, sư ông cho người đến khám nghiệm thi thể, lúc đó mới hay nàng là thân gái giả trai để được chấp nhận xuất gia. Làng cho bắt Thị Mầu và chồng trước của Thị Kính đến. Thị Mầu xấu hổ, đành phải tự tử, còn Thiện Sĩ ăn năn, bèn đi tu, về sau biến thành một con chim.
Với tuệ giác và lòng bi mẫn, Thị Kính chẳng phân biệt giữa tình máu mủ hay người dưng, nàng đã nuôi nấng đứa bé lớn lên với tất cả tình thương và sự vất vả của mình:
Chẳng sao cũng chịu cù lao
Xót tình măng sữa, nâng vào trong tay. (Vô danh)
Đây là tấm lòng thương xót chúng sinh với trái tim bình đẳng của bậc chân tu, điều mà chúng ta cần học, nên học và phải học để con tim mình bớt đi những hạt giống của ích kỷ và tạo nên năng lượng cần thiết, dũng mãnh trước những con sóng bạc đầu, những trận lốc chết người trong kiếp sống.
Nhờ những đức tính cao quý do ảnh hưởng triết lý và lời giáo huấn của đạo Phật, nhờ thực tập hạnh từ bi và nhẫn nhục sâu sắc mà sau kiếp thứ mười, Thị Kính đã thoát vòng sinh tử luân hồi, đắc quả Bồ-tát, danh hiệu Quán Thế Âm.
Nhân sinh thành Phật dễ đâu
Tu hành khổ hạnh rồi sau mới thành. (Tục Ngữ)
Sau này có những truyện khác kể lại Quán Âm Bồ-tát cứu độ con của Thị Mầu đem về Nam Hải làm người hầu. Do đó, người ta họa hình Quán Âm Bồ-tát mặc áo tràng trắng, ngự trên tòa sen, bên tay mặt có con chim, mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề; bên dưới có đứa trẻ bận khôi giáp, chấp tay đứng hầu.
Đọc xong cốt truyện, chúng ta thật xúc động vì tính nhân văn của nó. Song cũng có thể đưa người ta đến hiểu lầm, nhất là lúc Thị Kính bị mẹ chồng đuổi ra khỏi nhà, nàng không còn chỗ dung thân; trong cơn đau khổ, cảnh “màn trời chiếu đất”, nàng đã tìm đến cửa Phật để “tị nạn”. Nàng đã chán đời, đã thất tình, cũng như Thúy Kiều vì hận đời, vì tránh gặp Kim Trọng, vì nghĩ mình là nhơ nhớp nên quy y cửa Phật. Nhưng chúng ta đâu biết rằng, trong “khúc quanh” ấy, nàng đã chợt tỉnh khi nghe được tiếng chuông chùa đâu đấy vang vọng và đã trở về với con người chân thật của chính mình.
Nàng nhận thấy cái khổ của kiếp người và nguyện tìm đường giải thoát khỏi phiền não và nghiệp chướng kiếp nầy. Cũng thế, nhìn sâu vào một khía cạnh nào đó, ta sẽ thấy nàng Kiều xuất gia là mong chóng trả nghiệp “hồng nhan bạc phận” và đáp đền ơn sâu nghĩa nặng của song đường:
Nhất nhơn chứng đắc
Cửu huyền thăng. (tục ngữ)
Theo Phật giáo, mọi người hiện hữu trên cuộc đời nầy là vì nghiệp. Những thuận cảnh và nghịch cảnh xảy ra và ập đến cho ta trong kiếp sống cũng là nghiệp, và nghiệp nầy là do ta tạo lấy và cũng do ta mà thay đổi; cũng như Thị Kính thoát cảnh éo le của nàng qua con đường tu đạo. Có lẽ vì thế mà trong Đoạn Trường Tân Thanh, cụ Nguyễn Du đã khuyên người đời vượt thoát nghiệp dĩ của mình bằng mấy vần thơ sau:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.
(3250. Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Lẽ phải, nguyên nhân hay nhất cho con người phát tâm xuất gia, không nên vì thất tình hoặc chán đời, mà chính là cảm nhận được sự khổ đau tê tái của kiếp người và sự vô thường chóng vánh của kiếp sống. Thật vậy, thân xác, sức khỏe, sự nghiệp, tài sản, thân quyến là những thứ tạm bợ, bản thân của chúng luôn luôn lột xác theo dòng thời gian và có thể tắt ngấm bất cứ lúc nào trong không gian băng giá. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã hơn một lần chạnh lòng thốt ra điều nầy trong nhạc phẩm nhớ đời, mang tên Cát Bụi:
Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một ngày. (Trịnh Công Sơn)
Có thể nói, cuối một đời, khi lá úa hoa tàn, những gì mang theo không ngoài mỗi phước nghiệp thiện ác của chúng ta trong quá khứ và hiện tại. Chính những hành động thiện ác nầy sẽ dẫn dắt ta đi vào tiến trình giải thoát giác ngộ hay đọa lạc, trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi. Con người ta, ai ai cũng già, bệnh, chết, không một ai có thể thoát khỏi quy luật này, cho dù là vua, nhà sư hay kẻ nông dân. Có lẽ vì thế mà thái tử Tất-đạt-đa, tức đức Phật Thích-ca Mâu-ni sau nầy, đã tỉnh thức rời xa hoàng cung nguy nga, vợ đẹp con thơ và ngôi vị Đế Vương để đi tìm con đường giải thoát. Bởi thế, qua câu chuyện Quán Âm Thị Kính, ta thấy rõ một điều: bằng nỗ lực cá nhân và sự tu hành chân chánh, ta có thể thoát khỏi nghiệp cũ và đi đến giải thoát.
Nói tóm, câu chuyện Quán Âm Thị Kính ít nhiều đã để lại trong lòng người đọc sự thương cảm trước tấn bi kịch của một người phụ nữ Việt Nam trong cảnh “chồng chúa vợ tôi”, trong nỗi hàm oan uất nghẹn. Và khiến ta kính nễ và khâm phục về sức chịu đựng vô hạn, lòng kiên nhẫn bất tận trước nghịch cảnh của một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Bên cạnh, cốt truyện đã chứa đựng và chuyển tải được tính giáo dục về nghiệp, về nhân quả, một khía cạnh luân lý đạo đức của con người. Tuy nhiên, cốt truyện không tránh khỏi hạn chế “có thể” xảy ra về việc hiểu lầm lý tưởng xuất gia của giới tu sĩ Phật giáo. Bởi thế, mong rằng các độc giả khắp nơi sẽ có cái nhìn sâu và kỹ hơn để cùng nhau thấy được tình cảm, ước mơ và ý nghĩa tận cùng mà tác giả Quán Âm Thị Kính muốn gởi gắm qua câu truyện. Hơn thế nữa, cùng nhau ứng dụng triết lý trên để cuộc sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn và hạnh phúc hơn.
Tài Liệu Tham khảo:
- Quốc Văn lớp 12 ABCD của nhóm giáo sư quốc văn, trang 77 do Trường Thi Xuất bản trước 1975
- Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc, Phật Quang xuất bản xã, 1988.
Tâm Lạc Jessica Tran
[Tập san Pháp Luân - số 24, tr.11, 2006]