Khi nói về các hình thức nghệ thuật của Nhật Bản, Trà đạo là một cái gì đó rất thiêng liêng được mọi người, nhất là những người yêu nghệ thuật, biết đến như một pháp môn luyện tâm song song với Hoa đạo, Kiếm đạo, thơ Haiku, v.v... Nghệ thuật Trà đạo được sáng lập bởi ngài Thiên Lợi Hưu (Sen-no-Rikyu, 1521-1591) và tông phái Thiên Gia Lưu, một tổ chức chuyên pha trà và điều khiển lễ nghi Trà đạo nổi danh bậc nhất dưới thời An Thổ Đào Sơn và Đức Xuyên Mạc Phủ (1573-1867). Cũng nên biết rằng, Thiên Lợi Hưu chỉ là người thừa kế và phát huy thành nghệ thuật tinh xảo thôi. Người đầu tiên truyền bá việc uống trà như pháp môn luyện tâm là hai Tổ sư Thiền tông, ngài Vinh Tây (1) và ngài Đạo Nguyên (2). Ngài Vinh Tây là người đầu tiên đem trà Thiết Quan Âm từ Trung Hoa về Nhật.
Thiên Lợi Hưu đã bỏ công để nghiên cứu về văn hóa, sau theo thọ giáo với các Cao Tăng Thiền tông để nghiên cứu sâu vào giáo lý và nghệ thuật Thiền, rồi ứng dụng và sáng chế thành nghệ thuật trà đặc biệt… Thấy ở đâu có tay pha trà nào giỏi, ông cũng đều đến xin làm người giúp việc, đun nước, hầu khách để học nghề, nhờ đó mà về sau, ông đã trở nên thiện xảo và nghệ thuật Trà đạo của ông một thời hấp dẫn cả Hoàng gia lẫn Mạc Phủ.
Nghề trà của ông chú trọng trên ba phương diện: pha trà, tổ chức cuộc Trà đạo và lễ nghi Trà đạo. Tài nghệ của Thiên Lợi Hưu đã trở nên nổi tiếng vang dội, khiến cả Hoàng gia lẫn Mạc Phủ đua nhau trả lương bổng thật cao để vời bằng được ông về với mình. Rốt cuộc, Mạc Phủ phải trả tới 3000 thạch thóc mỗi năm (mỗi thạch tương đương 180 kg) cùng công thự và gia nhân mới mời được. Sử liệu ghi rằng, đây là mức niên bổng cao nhất đương thời, (chân dung ngài Thiên Lợi Hưu) mà kể cả các chức quan văn, võ cao cấp nhất cũng không sánh kịp. Vì quá nổi tiếng cho nên cuộc đời của ông kết thúc dưới sự ganh tỵ, sân hận của danh tướng Phong Thần Tú Cát. Vị này bắt ông phải mổ bụng tự sát (một kiểu chết đẹp theo quan niệm Nhật Bản).
Điều vinh hạnh cho Thiên Lợi Hưu không phải ở chỗ niên bổng cao tột, mà ở chỗ, lúc sinh thời, vô số Hòa thượng, tướng tá, con nhà quý phái hay phú thương lặn lội từ ngàn dặm đến xin thọ giáo. Khi ông tạ thế thì được tôn xưng là tổ khai sáng của môn phái pha trà Thiên Gia Lưu. Phái này luôn giữ vị trí bậc nhất về nghệ thuật Trà đạo trong suốt gần 3 thế kỷ dưới thời Đức Xuyên Mạc Phủ.
Trà đạo cổ là một nghệ thuật uống rất nổi tiếng ở Nhật. Có những trường đặc biệt dạy nghệ thuật này và liên kết những người yêu thích lại với nhau, được các đảng phái chính trị và những người ảnh hưởng ủng hộ. Nghệ thuật Trà đạo chứa trong mình những yếu tố cốt lõi của nền văn hóa truyền thống. Nó giúp người Nhật giữ gìn trang phục dân tộc, bởi lẽ mặc veston hay đồ Jean mà ngồi uống Trà đạo là không thể hợp. Nó cũng góp phần giúp người Nhật giữ được cách trang trí nội thất dân tộc, thậm chí trong một căn hộ xây theo lối kiến trúc Âu châu nhất thiết vẫn có một phòng dành riêng cho Trà đạo. Trà đạo giúp cho người Nhật giữ gìn được phong thái ngôn ngữ văn học của họ, bởi lẽ hình thức và ngôn ngữ của một cuộc nói chuyện thâm giao trong Trà đạo không hợp với những lời đao to búa lớn. Sự hiểu biết về Trà đạo làm tăng thêm uy thế xã hội và là lời giới thiệu tốt nhất về con người Nhật Bản.
Trong quyển Zen in Japanese Art, Toshimitsu Hasumi có viết về Trà đạo:
“Những nguyên tắc cơ bản của Trà đạo (Sadō) – sự hài hòa, kính trọng, thanh tịnh và yên tĩnh – là những phản ánh đặc trưng của Nhật Bản đối với đời sống trong cảm quan chân chánh của lời nói. Thông thường, chúng cũng là những yếu tố rất cần thiết cho đời sống con người trong xã hội. Trong nghi thức uống trà, chúng ta tìm thấy trạng thái lý tưởng hóa của đời sống xa xưa của nhân loại. Hài hòa là biểu trưng cho sự cao quý của tâm linh”. (The principles of the Sadō – harmony, respect, purity, and stillness – are the typical Japanese reactions to life in the true sense of the word. They are also in general the elements necessary for human life in society. In the tea ceremony we find the idealized state of the pristine life of mankind. Harmony symbolizes the nobility of the spirit).
Ngày nay, Trà đạo không còn là sản phẩm độc quyền của Nhật nữa, nó được truyền bá khắp các nước, nhất là những nước hướng về chiều sâu tâm linh, dĩ nhiên cái gốc bao giờ vẫn hơn cái ngọn. Ngay tại Việt Nam, cũng có nhiều nơi biết vận dụng nghệ thuật này để thu hút thực khách. Có nhiều trà đình chỉ chuyên phục vụ các loại trà Tàu, Nhật, Hàn Quốc, v.v... và hiếm thấy trà móc câu B’lao ở đó. Cái tên ngoại quốc bao giờ nghe cũng khoái hơn!
Người dân Nhật khi thưởng thức Trà đạo, họ chỉ uống bằng tâm, sự chú định của tâm có tính chất chủ đạo trong cuộc trà. Về điểm này, chúng ta thấy pháp môn “Thiền trà” của Làng Mai do Hòa thượng Thích Nhất Hạnh chủ xướng có nét gì đó tương đồng rất lớn với Trà đạo. Người uống trà phải thật sự tĩnh tâm, thưởng thức cái vị của trà từ khi chưa được chế, thưởng thức tiếng nước reo, tiếng rót của nước vào tách, và tận hưởng hơi ấm của trà lan tỏa trong không gian, thẩm thấu vào từng cơ quan của cơ thể. Nâng chén trà trên hai tay, hát lên bài thi kệ Thiền trà:
Chén trà trên hai tay
Chánh niệm nâng tròn đầy
Thân và tâm an trú
Bây giờ và ở đây.
Uống trà như thế này thì tâm hồn nào chẳng thanh tĩnh, lắng trong. Bao sự buồn phiền, uất não mà cuộc đời dành cho ta đâu còn có cơ hội khuấy động, thực tại an vui đang diễn bày, con người chỉ có việc tiếp xúc với hạnh phúc mà thôi. Cho hay, chỉ có Thiền tông của Phật giáo (hay nói rõ hơn là ZEN của Phật giáo Nhật) mới có thể ảnh hưởng nên một nền văn hóa cao quý như thế.
Nếu có ai đã từng đến Huế, đi về hướng lăng Khải Định, bên tay phải trên đường có một trà đình tên là Vũ Di. Đến nơi, mình muốn ngồi ghế hay ngồi sập hay bồ đoàn tuỳ chọn. Thực đơn đưa ra đủ các loại trà, chọn cho mình một loại yêu thích, nghe tiếng nhạc hòa tấu nhẹ nhàng khi Tàu, khi Nhật, khi Ta (không có Tây), ta ngồi yên tĩnh, lắng nghe tiếng thông reo vi vu, thưởng thức từng ngụm từng ngụm, thơm ngon lạ thường. Cũng chỉ có những khung cảnh núi đồi xanh mát, không gian u tịch, có khi mưa phùn bay bay, mình ngồi như thế, uống ly trà như thế mới thẩm thấu được cái vị ngon, tâm hồn mình mới gần gũi được với thiên nhiên. Chứ có đâu, trong nhà hàng đèn mờ giữa chốn đô thị phồn hoa, nhạc Tây xập xình, mà người ta cũng bày ra “Trà đạo”. Cái này gọi là “đạo trà” thì may ra còn đúng. Các nhà kinh doanh du lịch ở Huế biết khai thác ưu điểm này lắm. Mấy năm gần đây, đi dọc các con đường ở ngoại ô, người ta sẽ thấy rải rác các nhà hàng hay quán trà theo lối cổ điển mọc lên, như là Vỹ Dạ Xưa, Nam Giao Hoài Cổ, Biệt Phủ Thảo Nhi, Tịnh Lâm Nhi, v.v… và v.v... Nghe cái tên không thôi là muốn lên ngay sáu câu vọng cổ.
Cái chính người viết muốn nói ở đây rằng, uống trà cho thật sự ra uống trà. Xin đừng lợi dụng sự hào nhoáng bề ngoài mà làm mất đi cái phong vị thật sự. Trà tên gì cũng được, khi uống thì phải bằng tâm, biết rõ mình đang có mặt với chén trà, như vậy là có niềm vui và hạnh phúc. Có nhiều giai thoại liên quan tới uống trà, mà qua đó ta thấy nó không còn chỉ là để thưởng thức nữa, ngược lại nó chính là công án để luyện tâm. Người đọc sách Thiền, hầu như ai cũng biết giai thoại về thiền sư Triệu Châu (3):
Có vị khách Tăng đến viếng thăm, Triệu Châu hỏi: “Đã từng đến đây chưa?” Tăng đáp: “Dạ có”. Ông mời: “Uống trà đi!”
Một vị Tăng khác đến viếng, cũng câu hỏi thăm ấy, Tăng đáp: “Dạ chưa”. Ông mời: “Uống trà đi!”
Thị giả thấy thế ngạc nhiên, hỏi: “Bạch Hòa thượng, sao hai người trả lời khác nhau mà Hòa thượng đều nói y nhau vậy?” Triệu Châu bảo: “Uống trà đi!”
Cảnh giới của Thiền chỉ có như vậy, còn lăng xăng hỏi nữa là lạc đường mất. Chỉ cần biết thực tại nhiệm mầu đang là đây: Uống trà!
Chú thích
(1). Vinh Tây (榮西, Eisai, 1141-1215): thuộc phái Hoàng Long, tông Lâm Tế (林濟, Rinzai), là tổ sư khai sáng tông Lâm Tế Nhật Bản, hiệu Minh Am, còn gọi là Diệp Thượng Phòng hay Thiên Quang Quốc Sư. Ông xuất gia năm 14 tuổi, thọ đại giới ở Tỷ Duệ Sơn, sở trường về Thai Mật, nhưng lại ta thán về sự suy vong của Thiền Học, nên đã hai lần nhập Tống cầu pháp. Vào tháng 7, ông về nước kiến lập Thánh Phước Tự ở Hakata và Kiến Nhân Tự ở Kyoto và bắt đầu xiển dương Thiền Tông. Năm 1215, ông thị tịch, thọ 75 tuổi.
(2). Đạo Nguyên (道源, Dogen, 1200-1253): hiệu là Hy Huyền, là vị Tổ khai sáng Tào Động tông ở Nhật Bản. Ông học pháp ở Tỷ Duệ Sơn, sau đó theo hầu Vinh Tây. Năm 1223, ông nhập Tống cầu pháp, đến 1227 về nước, sáng lập Hưng Phước Tự ở Kyoto và bắt đầu hoằng pháp. Năm 1244, ông khai sáng Vĩnh Bình Tự để làm đạo tràng chuyên tu thiền Tào Động. Ông được Hiếu Minh Thiên Hoàng ban cho hiệu là Phật Tánh Truyền Đông Quốc Sư, nhụ hiệu là Thừa Dương Đại Sư, và tông Tào Động thì gọi ông là Cao Tổ.
(3). Triệu Châu - Tùng Thẩm: (趙州從諗) môn hạ của Nam Nhạc, tên Toàn Thẩm người vùng Hác Hương, Tào Châu, tỉnh Sơn Đông. Ông họ Hác, lúc còn nhỏ, ông xuất gia ở Hỗ Thông Viện, rồi đến vùng Trì Dương tham yết với Nam Tuyền Phổ Nguyện và được khế ngộ. Về sau, ông còn đến tham bái một số danh Tăng đương thời như Hoàng Bá, Bảo Thọ, Diêm Quan, Giáp Sơn, v.v... và cuối cùng thể theo lời thỉnh cầu của đồ chúng, ông đến trú tại Quan Âm Viện, vùng Triệu Châu, thuộc tỉnh Hà Bắc ngày nay. Tại đây, ông đã tuyên dương Thiền phong độc đáo của mình. Phần lớn những văn vấn đáp cũng như dạy chúng của ông được lưu truyền như là công án. Đến niên hiệu Càn Ninh nhà Đường, ông thị tịch, thọ 120 tuổi, đươc ban nhụ hiệu là Chơn Tế Đại Sư. Tác phẩm của ông có Triệu Châu Lục, Chơn Tế Đại Sư Ngữ Lục.
Tài Liệu Tham Khảo
• Toshimitsu Hasumi: Zen in Japanese Art. Routledge & Kegan Paul Ltd, London, 1962.
• Anh Côi biên dịch: Du Lịch Vòng Quanh Thế Giới - Nhật Bản. Nxb Thanh Niên, 2003.
• Châm Vũ Nguyễn Văn Tần: Nhật Bản Tư Tưởng Sử - tập 1&2. Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa xuất bản, 1972 - 1973.
• Thích Nguyên Tâm: Mỗi Ngày Một Câu Chuyện Thiền. Nxb Tôn Giáo, 2005.
• Thích Nguyên Tâm biên dịch: Phật Giáo Nhật Bổn - tập 1&2. Hội Chấn Hưng Học Thuật Nhật Bổn, bản thảo.
[Tập San Pháp Luân.34.Tr,51.2006]