Việt Nam rất tự hào có nền văn học vô cùng phong phú và đa dạng; có sự đóng góp không nhỏ của Phật giáo với những tư tưởng nhân quả, nghiệp báo, giải thoát, tịch diệt, niết-bàn. Trải qua gần 1900 năm thăng trầm, khi thịnh, lúc suy, Phật giáo đã hòa quyện vào mạch sống nhân dân Việt Nam, kết tinh bằng tín ngưỡng và thi ca của bất cứ thời đại nào.
Lịch sử Phật giáo đã ghi chép những thiền viện, vừa là chỗ tu hành, vừa là nơi hun đúc những tinh hoa của văn học. Một Pháp Thuận (914 - 990) đã làm cho sư nhà Tống phục tài, một đại sư Khuông Việt (959 - 1001) nổi tiếng với tài thơ văn. Từ Đinh - Lê - Lý - Trần, cửa thiền đã đào luyện biết bao văn nhân lỗi lạc: Khánh Hỷ thiền sư với Mộ Đạo Tập, Mãn Giác thiền sư với Viên Thông Tập, Trần Nhân Tông với Khóa Hư Lục, Trần Quang Khải với Lạc Đạo Tập… Đó là những thời cực thịnh của đạo Phật. Thời ấy, cửa thiền đã đóng vai trò quan trọng trong văn học Việt Nam.
Qua đời Lê - Nguyễn, triều đình thiên về Nho giáo, nhưng ảnh hưởng của Phật giáo không vì vậy mà phai mờ, trái lại càng đi sâu vào tâm hồn người Việt một cách thâm trầm. Ngôi nhà Phật giáo được dựng nên, yên tĩnh tu tập, được tìm thấy qua những tác phẩm trường thiên, điển hình như Quan Âm Thị Kính, Phan Trần v.v…
Một điều đáng chú ý là qua hai triều Lý - Trần, những tác phẩm mang màu sắc Phật giáo không những không có tư tưởng tiêu cực chán đời, trái lại còn thắm nhuần những triết lý siêu thoát, lạc quan tích cực, dấn thân để mong giải thoát con người khỏi vòng tục lụy, một ý thức hệ đã ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo qua hai tác phẩm tiêu biểu: Cung Oán Ngâm Khúc, Quan Âm Thị Kính trong nền văn học Việt Nam.
CUNG OÁN NGÂM KHÚC
Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu - Nguyễn Gia thiều (1741-1798) là một tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng được viết theo thể song thất lục bát, có tất cả 356 câu. Tác phẩm này cho thấy tâm tư tác giả không chỉ thâm nhập ý tưởng siêu thoát của Phật - Lão mà còn bị níu kéo bởi triết lý nhập thế tích cực của Nho giáo.
Vẫn biết đời là bể khổ, là bến mê, tất cả hạnh phúc trên đời chỉ là phù hoa ảo ảnh sẽ chìm đắm vỡ tan như bọt bèo trong hư vô của vũ trụ:
Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì.
Nhân sinh quan ấy là sự vô thường và Phật đã từng dạy: “nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước đại dương”. Những nỗi khổ đau của
Kiếp người:
Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu?
Trắng răng đến thuở bạc đầu
Tử, sinh, kinh, cụ làm đau mấy lần?
Cuộc sống chẳng khác nào một kiếp đọa đày. Vậy thì không gì hơn là tìm cách giải thoát toàn diện con người, vươn hẳn ngoài số tiếp:
Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong.
Đa mang chi nữa đèo bồng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình?
Đa mang số kiếp làm gì? Tự gạt bỏ tất cả, giã từ vô minh, thực hiện con đường chánh đạo để mong đến niết-bàn an vui. Cho nên:
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
Mượn hoa đàm, đuốc tuệ làm duyên.
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.
Nhưng con đường giải thoát đã không được như ý nguyện, vì cung phi vốn đã mang cái nghiệp như Thúy Kiều. Do đó, tư tưởng Nguyễn Du đã gặp Ôn Như Hầu:
Ai ngờ trời chẳng cho làm
Quyết đem dây thắm mà giam bông đào.
Định mệnh khắt khe đã ràng buộc cung nữ bằng vòng dây thắm, chính là thuyết nhân quả của nhà Phật:
Hẳn túc trái làm sao đây tá?
Hay tiền nhân hậu quả xưa kia?
Rõ ràng trong Cung Oán Ngâm Khúc, tác giả đã xây dựng trên nền tảng giáo lý nhà Phật, sự trớ trêu cuộc đời đã khiến cho người cung nữ nghĩ một đàng, làm một nẻo, chung quy cũng vì nghiệp chướng. Nói như Tiên Điền Nguyễn Du qua đoạn Trường Tân Thanh:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa.
Hay là:
Rỉ rằng nhân quả dở dang
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
Qua tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu đã bày tỏ tâm sự của một kẻ sĩ đã nhìn thấy cuộc tang thương biến đổi và biết bao thăng trầm mà chính tác giả đã sống giữa bao nhiêu biến cố lịch sử quan trọng, tâm sự đôi phen bận rộn về ý nghĩa cuộc đời. Tâm sự đó là một tấn bi kịch ray rứt, tiềm tàng một mâu thuẫn khắc nghiệt giữa một cuộc sống nội tâm muốn siêu thoát và những phiền não trong thực tại.
QUAN ÂM THỊ KÍNH
Quan Âm Thị Kính là tác phẩm chuyên chở trực tiếp tư tưởng Phật giáo từ nguồn gốc và tư tưởng ấy phổ biến một cách sâu rộng trong quảng đại quần chúng. Qua Cung oán ngâm khúc, tuy nhân vật không thực thi được con đường chánh pháp để đến bờ giác ngộ, nhưng đã nhận chân được chân lý của Tứ diệu đế. Dù cho người cung nữ của Ôn Như Hầu có thực hiện được con đường diệt khổ thì đó cũng chỉ là một phương tiện tiêu cực và hạn hẹp vào ý nghĩa tự giác để mong làm “Cái thân ngoại vật là tiên trong đời”.
Cao hơn một bậc, tác phẩm thơ nôm khuyết danh Quan Âm Thị Kính của thế kỷ 19 có tính cách tích cực hơn. Nhân vật ở đây không những có thái độ tự giác mà còn mang những đức tính từ bi, hỷ xả, v.v… đem tứ vô lượng tâm gánh vác hết mọi phiền não của chúng sinh trong tinh thần giác tha.
Truyện Quan Âm Thị Kính viết theo thể văn vần: sáu, tám, gồm 788 câu, mô tả cuộc đời của Phật Quán Âm kiếp tu thứ 10, kiếp cuối cùng trước khi đắc đạo. Thị Kính, nhân vật chính trong truyện là một vị chân tu trải qua 9 kiếp, thế mà vì một lời nói hão huyền, đã gây thành “khẩu nghiệp” nên phải “chờ cho kiếp nữa đủ mười, thử cho đày đọa suốt đời xem sao?” Đúng như Phật dạy: “Vạn sự khổ”. Cuộc đời của Thị Kính là một thí dụ cụ thể:
Thuở làm vợ để chồng ngờ thất tiết
Lúc làm trai cho gái đổ oan tình. (Thư Thị Kính)
Cùng với hai nỗi oan trái ấy là cả một chuỗi dài cay đắng, khổ đau, mà nguyên nhân của khổ cũng chỉ vì đã sinh vào cõi trần ai:
Cõi trần mượn cửa thác vào
Hóa sinh, sinh hóa, lẽ nào cho hay.
Muốn xóa bỏ nghiệp chướng, thoát khỏi luân hồi, chỉ có con đường độc nhất, đó là: “lánh miền trần tục, nương mình thiền môn”.
Miền Bát-nhã tìm vào mây khói,
Nương bè từ vượt khỏi sông Mê
(Thư Thị Kính)
Quan Âm Thị Kính là tác phẩm làm sáng tỏ đạo từ bi của Phật. Từ bi là động lực chính yếu đã thúc đẩy đức Phật đi tìm con đường giải thoát cứu độ chúng sanh, Thị Kính là hiện thân của lòng từ bi ấy. Khi phải mang nỗi oan trái khó giải đáp, Thị Kính chỉ sợ rằng “kiếp tu ấy quả ấy có tròn được chăng”, nên dầu tủi nhục nhưng tâm vẫn điềm nhiên, vì điều nguyện ước về lý tưởng tôn thờ đã được thỏa mãn. Thị Kính hứng lấy tất cả khổ đau cho miệng đời mai mỉa, cam nhận nỗi oan trái đã thể hiện được cái tâm nguyện của Bồ-tát. Đức Phật đã từng dạy: “Ta chịu đau thân là nhận hết cả hằng hà sa số khổ đau của chúng sanh. Vì ta nguyện tế độ chúng sanh, nên ta mới thành Phật”.
Đối với người, Thị Kính đã đem tâm từ đáp lại sự điêu ngoa, gian trá:
Sá thù chi đứa dâm ô
Nước tùy duyên rửa đi cho kẻo mà!
Chữ rằng:
Nhẫn nhục nhiệm hòa
Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu!
Thị Kính vâng lời Phật dạy: “Người tu hạnh Bồ-tát phải lấy tâm từ bi làm gốc. Cây Bồ-đề lớn mạnh nhờ bám sâu gốc rễ trong đất, kẻ tu hành phải lấy từ bi làm lẽ sống của mình”. Nhờ vào lòng từ bi vô hạn, Thị Kính nhận nuôi đứa hài nhi “đem giọt máu tình thâm hòa vào”.
…Nhưng vì trong dạ hiếu sinh
Phúc thì làm phúc, dơ đành họa dơ.
Cá trong chậu nước bơ vơ
Khi nay chẳng cứu, còn chờ khi nao?
Tu hành không phải tìm về con đường giải thoát cho cá nhân, mà phải biết cứu độ chúng sanh mới là định hướng của Phật pháp. Thị Kính đã biết như vậy:
Dù xây chín kiếp phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho một người.
Tóm lại, truyện Quan Âm Thị Kính trình bày quan niệm giải thoát dưới nhãn quan của người xuất gia. Tu hành không phải là hình thức tiêu dao cửa Phật, làm duyên với hoa đàm, đuốc tuệ, an vui với tiếng mõ câu kinh, mà tu hành phải khổ hạnh, phải trải qua bao nhiêu thử thách gian truân, đó là cơ hội cho người ta lấy tâm từ để chiến thắng cảnh ngộ, không chỉ giải thoát cho cá nhân, mà còn cứu độ tha nhân. Tất cả tác phẩm Quan Âm Thị Kính chỉ rút lại hai câu:
Nhân sinh thành Phật dễ đâu?
Tu hành có khó rồi sau mới thành.
Tóm lại, cõi đời và nẻo đạo, tâm này và lòng kia đã gắn chặt cảm thông sâu xa qua thơ ca, ảnh hưởng đậm nét tư tưởng Phật giáo: “Thơ tôi thơm huyền diệu – Mọc lên đạo từ bi” (Hàn Mặc Tử). Cuộc trùng phùng giữa tư tưởng Phật giáo và thi ca Việt Nam trải hằng bao thế kỷ quả là con đường hun hút lên chùa Hương nghi ngút khói vàng của người thiếu nữ ngày nào trong thơ Nguyễn Nhược Pháp: “Mẹ bảo đường còn lâu, cứ vừa đi ta cầu: Quán Thế Âm Bồ-tát…” Vẻ hồn nhiên ấy của người thiếu nữ, với niềm tin tưởng vô biên vào lẽ nhiệm mầu đã nói lên sự hòa đồng vĩnh cửu giữa dân tộc tính Việt Nam xuyên qua ánh đạo từ bi Phật pháp. Sự hòa hợp này đã đào tạo cho dân tộc một tâm hồn sâu sắc, tế nhị, nhẫn nhục, rộng lượng và tự tin:
Mãn cảnh giai không hà hữu tướng
Thử tâm thường định bất ly thiền. (Nguyễn Du)
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã chịu ảnh hưởng sâu sắc triết lý Phật giáo:
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, nọ sông cát bồi.
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về.
Trông ra bến hoặc, bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương.
Đề tài viết về Phật giáo rất nhiều, người viết chỉ dẫn ra đây một ít tác phẩm văn học tiêu biểu mang đậm triết Đông phương đã đi sâu vào mạch sống dân tộc.■
[Tập San Pháp Luân.32.Tr,54.2006]