Đạo đức và tôn giáo là những hình thái ý thức xã hội ra đời từ rất sớm, có bề dày lịch sử trong nền văn hóa nhân loại. Sự hiện diện của đạo đức và tôn giáo là minh chứng cho sự cầu cầu vọng của con người về một thế giới tốt đẹp.
Những luận giải triết học về đạo đức chỉ ra rằng: “Đạo đức… bao gồm những nguyên lý (đạo lý), quy tắc, chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Căn cứ vào những quy tắc ấy người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của mỗi người bằng các quan niệm về thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa vụ, danh dự”.
Sự biểu hiện của đạo đức trong đời sống thường nhật được cụ thể hóa bằng những quy tắc xử sự của con người trên hai phương diện: thứ nhất là những ứng xử của con người với tự nhiên (còn gọi là đạo đức sinh thái), vi trong quan hệ với môi trường thiên, con người được xem là một sinh vật hữu tình, sinh tồn trong thế giới vô cùng rộng lớn và nhiều bí ẩn, là “đứa con của mẹ thiên nhiên”, được thiên nhiên đùm bọc, che chở. Theo đó, con người là một tiểu vũ trụ, là một bộ phận của giớ tự nhiên, sự tồn tại và phát triển là phụ thuộc vào giới tự nhiên. Vì vậy, mỗi hành vi thái quá của con người khi tác động vào tự nhiên sẽ làm mất trạng thái thăng bằng của nó, và như thế là trái với quy luật, là phi đạo đức sinh thái, đúng như lời nhận định của giới học rằng: “hủy hoại tự nhiên cũng là hủy hoại chính bản thân mình”. Thứ hai là những quy tắc ứng xử của con người với nhau trong vô số những quan hệ trong cộng đồng. Những quan hệ này có tính hai mặt, một mặt nó là điều kiện, là môi trường để con người thể hiện hành vi đạo đức của mình, mặt khác thông qua những quan hệ này mà các chuẩn tắc đạo đức cũng được kiến tạo, bồi đắp và hòan thiện.
Pháp luật cũng là một hình thái ý thức xã hội, nhưng trong so sánh nó không giống với đạo đức. Bởi vì, nếu pháp luật điều chỉnh hành vi, thái độ ứng xử của con người trong cộng đồng bằng các quy phạm, các văn bản có tính pháp quy, mệnh lện, bắt buộc thì đạo đức điều chỉnh hành vi của con người bằng nguyên tắc tự nguyện, tự giác, do sự thôi thúc của lương tâm và chịu sự chi phối của dư luận xã hội. Những chuẩn tắc đạo đức của con người mang tính bền vững, được lưu truyền lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Phạm trù đạo đức luôn mang tính lịch sử cụ thể vì mỗi thời đại đều xây dựng cho mình thể chế đạo đức khác nhau. Đạo đức cũng không phải là cái gì cao siêu, trừu tượng, hó hiệu mà nó ra đời, tồn tại và phát triển do nhu cầu của xã hội, bỡi lẽ, là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức luôn chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi theo cho phù hợp. Mọi quy tắc đạo đức chỉ có thể được thực hiện trong xã hội, do các quan hệ xã hội quy định, điều đó có nghĩa là các quan hệ xã hội là những yếu tố không thể thiếu cho sự hình thành và phát triển các quy tắc đạo đức.
Mỗi một xã hội trong sự tồn tại của nó là rất đa dạng và phong phú, với nhiều mối quan hệ khác nhau, và mỗi quan hệ đều có chuẩn mực đạo đức riêng. Vì thế, cho đến nay đã có nhiều lý thuyết đạo đức ra đời nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử cho phù hợp phù hợp, nhằm hướng đến hòan thiện bản chất con người.
Phật giáo là một tôn giáo với mục tiêu hướng thiện, ra đời vào thế kỷ VI TCN, do Siddharta (Tất Đạt Đa – 563-483 TCN) sáng lập. Là một trong 3 tôn giáo lớn trên thế giới (cùng với đạo Thiên chúa và đạo Hồi), Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm (từ những năm đầu công nguyên) bằng đường bộ và đường thủy mà các thương gia gọi đó là “con đường gió mùa” hay “con đường tơ lụa”.
Kể từ khi du nhập vào Việt Nam đến nay, Phật giáo đã sống và phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc (có lúc trở thành tư tưởng chủ đạo trong việc phát triển văn hóa tinh thần của đất nước). Bản thân Phật giáo với mục đích chống phân biệt đẳng cấp và đòi bình đẳng xã hội, ngay từ đầu đã thể hiện các nguyên tắc đạo đức của một tôn giáo (chủ thuyết).
Đạo đức và các nguyên tắc đạo đức của Phật giáo được thể hiện chủ yếu qua nhân sinh quan:
Xuất phát từ thế giới quan cho rằng, thế giới này không phải do đấng tối cao (Brahman) sáng tạo. Vũ trụ là vô cùng vô tận với hàng ngàn thế giới và nó được chia thành 3 cấp độ: Tiểu thiên, trung thiên và đại thiên thế giới.
Thế giới do danh và sắc tạo thành (tức vật chất và tinh thần). Bản thân con người do 5 yếu tố tạo nên (gọi là ngũ uẩn: Sắc – thụ - tưởng – hành - thức). Thế giới quan (quan niệm về sự vật-hiện tượng) Phật giáo dựa trên cơ sở nhân – quả (duyên khởi).
Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân – nhân kết hợp với duyên thì sinh ra quả (nhân – duyên – quả), quả lại kết hợp với duyên biến thành nhân và sinh ra quả khác….. cứ thế, sự vật, hiện tượng vận động không ngừng, bất tận…
Thế giới là vô thường vô ngã, bỡi lẽ không có gì bất định, vĩnh viễn, mọi sự vật đều biến đổi, đều trôi đi như dòng sông đang chảy, kể cả linh hồn con người cũng không thể bất tử. Mọi cái chỉ thoảng qua, là tạm bợ.
Từ quan niệm về thế giới như vậy, Phật giáo đi đến giải quyết vấn đề nhân sinh quan. Đây là cơ sở để Phật giáo xây dựng và thực hiện các nguyên tắc đạo đức:
“Đời người là bể khổ”: Sự hiện hữu của con người trên thế giới này là khổ. Cái kiếp khổ của con người được Phật giáo thể hiện trong “Tứ diệu đế” gồm:
- Khổ đế (Dkkha - Satya), gồm: Sinh - lão – bệnh – tử - thụ biệt ly – oán tăng hội – sở cầu bất đắc – thụ ngũ uẩn.
- Tập đế (Samudaya - Satya), gồm 12 nguyên nhân gây khổ: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục căn, xúc, thụ, thủ, hữu, sinh, lão, tử.
- Diệt đế (Viradha-Satya): Cái khổ có thể diệt được bằng cách tiêu diệt mọi ham muốn dục vọng.
- Đạo đế (Marga - Satya): con đường tu luyện để tiêu diệt cái khổ, gồm: Bát chính đạo (8 con đường để diệt khổ):
1. Chính kiến (Sammyak - Dristi): Thấy, xem xét sự vật một cách đúng đắn, hiểu biết một cách đúng đắn.
2. Chính tư duy (Sammyak - Samkalpa): suy nghĩ đúng đắn
3. Chính ngữ (Sammyak - vaca): Lời nói đúng đắn
4. Chính nghiệp (Sammyak - Karmata): Hành vi đúng đắn
5. Chính mệnh (Sammyak - ajiva): Mưu sinh đúng đắn
6. Chính tịnh tiến (Sammyak - Vyayama): Cố gắng, nổ lực phấn đấu một cách đúng đắn
7. Chính niệm (Sammyak - smritisati): Ghi nhớ, tâm niệm đúng đắn
8. Chính định (Sammyak – Samyak - samadhi): Tập trung tư tưởng một cách đúng đắn.
Tám con đường diệt khổ này được gộp lại thành 3 điều: Giới – định – tuệ. Thực hiện tám con đường giải thoát khỏi bể khổ mỗi người phải vượt qua chính mình bằng niềm tin và hành vi đạo đức.
Phật giáo cho rằng, nguyên nhân gây khổ là do con người không hiểu biết (vô minh) về sự vô thường vô ngã. Vì vô minh nên “ngã chấp”; vì không hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng nên “vọng tưởng” và bị “dục” dẫn đường một cách mù quáng trong vòng nhân – quả của nghiệp nên không thể thoát được vòng luân hồi khổ.
Nguyên tắc thực hiện đạo đức Phật giáo yêu cầu: Giới – định – tuệ phải đi liền với nhau, đó là điều kiện tiên quyết để diệt dục, hết vọng tưởng, hết ngã chấp, đoạn tuyệt vô minh và đạt giác ngộ.
Giải thoát chính là con đường tu đưỡng đạo đức, giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít (Giới: luân lý, đạo đức, cách cư xử, tư cách đạo đức, làm lành, lánh ác, từ bi, hỉ, xả…).
Quy tắc đạo đức Phật giáo được thể hiện trong giới luật, quy định nguyên tắc ứng xử của các tín đồ, các cư sĩ và thế tục (giới luật cho hàng xuất gia gồm 227 giới cho nam – (tăng) và 348 giới cho nữ - (ni) về cuộc sống tăng đoàn). Đây là những quy phạm đạo đức giúp cho tu sĩ xuất gia vượt qua những giá trị đạo đức thông thường trong xã hội để đạt đến sự lìa bỏ ngã chấp. Giới luật chung cho cả cư sĩ và thế tục là đạo đức nhân gian, tức từ, bi, hỉ, xả, bác ái,… nhằm đạt tới cuộc sống hòa vui, tránh tạo nghiệp ác, tích lũy nghiệp thiện.
Đối với các tín đồ, quy tắc đạo đức mà Phật giáo đưa ra gồm:
- Ngũ giới: Không sát sinh, không chộm cắp, không tà dâm, không uống rượu, không vọng ngôn.
- Thập thiên: ba nghiệp ác của thân: Không sát sinh, không chộm cắp, không tà dâm; bốn nghiệp của khẩu: Không nói dối, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời độc ác, không nói thêu dệt; ba nghiệp ác của ý: không tham dục, không ghen ghét thù hận, không tà kiến.
- Giới lục hòa: thân hòa đồng trụ
- Lục độ (dành cho phật tử nói chung), gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tịnh tiến, thiền định.
+ Bố thí: Đem phúc lợi ban cho người khác.
+ Trì giới: Thực hiện đúng đắn giới luật, làm chủ hành vi tâm, thân, ngữ.
+ Nhẫn nhụ : Đức kiên nhẫn, nhẫn nại
+ Tịnh tiến: Chuyên cần, không ngừng tu tập
+ Thiền định: Tu luyện về nội tâm
Đối với người thế tục, Phật giáo đưa ra nhiều lời khuyên răn về đạo đức rất thú vị: “Tạp Ahàm (quyển 4, kinh 91) có ghi lời dạy về “Tứ pháp” của đức Phật đối với Uấtxàca trong việc mưu sinh”: Một là phương tiện đầy đủ, tức là có nghề nghiệp chính đáng; hai là bảo vệ, giữ gìn đầy đủ, tức không để mất mát, thất thoát thành quả sức lao động; ba là thiện tri thức, tức là có hiểu biết đúng đắn về các việc thiện và tránh các việc bất thiện trong làm ăn; bốn là chính mệnh đầy đủ, tức là biết làm chủ cuộc sống, không lãng phí, không bủn xỉn, biết làm phúc và cúng dường, biết chăm nom cuộc sống cho quyến thuộc, biết tích lũy cho đời nay và chuẩn bị cho đời sau”… Hoặc “Lục phương lễ” (là phép tắc đối xử giữa người với người trong đó lấy bản thân mình làm trung tâm) – Bài luân lý mà đức Phật dạy cho Thiện Sinh: “Phương Đông là cha mẹ, phương Nam là anh em, phương Tây là vợ con, phương Bắc là bạn, phía dưới là nô bộc, phía trên là vị thầy tôn giáo. Các quan hệ phải có hai chiều cân đối, cùng tôn trọng nhau, vừa có nghĩa vụ, vừa có quyền lợi, không thể thiên lệch phiến diện”.
Có thể nói rằng, đạo đức Phật giáo là một hệ đạo đức xuất thế, giá trị đạo đức Phật giáo thiên về nội tâm, phản tỉnh hơn là xử lý các quan hệ bề ngoài cho nên Phật giáo phát huy tối đa tính tự chủ cá nhân trong việc thực hành các quy tắc đạo đức. Sự phán xét của đạo đức là nghiệp báo, nghiệp quả, nó điều chỉnh đạo đức của mỗi người theo quy luật nhân - quả tự tại. Điều đặc biệt hơn, Phật giáo là tôn giáo có khuynh hướng vô thần, không thừa nhận sự sáng tạo của một đấng siêu nhiên nào, mọi giá trị luân lý, đạo đức đều diễn ra trong thế giới nhân sinh chứ không phải do một thế lực nào chi phối. Đây là điểm ưu trội của Phật giáo so với các tôn giáo khác.
Phật giáo với các chuẩn tắc đạo đức nhân văn cao cả về đời sống con người có vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội với vô số những quan hệ ngang bằng và trên dưới. Đặc biệt trong xã hội ngày nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển với những đặc tính của nó đã làm cho không ít người cuốn lao theo vòng xoáy của đồng tiền mà lãng quên đi các quy tắc xử sự đạo đức thì, Phật giáo với những khung chuẩn giá trị đạo đức của mình có thể được xem như là một chiếc gương trong sáng về giá trị nhân sinh để mỗi người soi mình vào đó và nhận chân được giá trị đích thực trong quảng đời vô cùng ngắn ngủi của mình trong thế giới này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hữu Vui (2004): Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Doãn Chính – Vũ Quang Hà – Châu Văn Minh – Nguyễn Anh Thường (2003): Kinh văn của các trường phái triết học Ấn Độ, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Tulku Thondup (2009): Hành trình giác ngộ, Nxb Tôn Giáo.
4. Nguyễn Duy Cẩn (2000): Nhập môn triết học Đông phương, Nxb Thanh Niên.
Chú Thích:
1.* Thạc sĩ Triết học – Giảng viên trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
2.** Thạc sĩ Triết học – Giảng viên trường Đại học Kiến Trúc Đà Nẵng.
3. Lê Hữu Tầng-cùng một số tác giả (1987): Từ điển Triết học giản yếu, NXB THCN, HN, tr.145.
4. Hoàng Thị Thơ (2002): Đạo đức Phật giáo với kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học, Số 7, tr.30.
5. Hoàng Thị Thơ, sđd, tr.30.
Nguyễn Quang Trường - Trịnh Khánh Sơn
[Tập san Pháp Luân - số 82, tr36, 2011]