Đạo Phật là tôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức. Chính đức Thế Tôn là biểu tượng vĩ đại cho nền hòa bình và hạnh phúc nhân loại. Ngày nay, nhiều người trên thế giới thấy rằng cần phải chú trọng hướng đến và thực hành giáo lý của đức Phật. Bởi vì, thực hành lời dạy của đức Phật là giải pháp đưa đến hòa bình và an lạc cho nhân loại. Người con Phật và những người tin Phật thấy rằng tất cả sự bất an trong cuộc sống đều xuất phát từ căn bản vô minh.
Vô minh là thiếu khả năng hiểu biết, chấp tự ngã của mình là thường hằng, bất biến, coi nó là điểm trọng yếu trong thể trạng con người và có thể định rõ con đường cho chúng ta thấy được vạn hữu vũ trụ trong thế giới ngày nay. Nó dẫn dắt mọi hành động vì quyền lợi riêng tư của chính nó, mà thực chất chỉ là ảo tưởng. Chính ảo tưởng của tự ngã là nguyên nhân gây ra khổ đau. Chúng ta muốn bảo vệ tự ngã từ những nguy hiểm của dòng đời, từ những biến động trong cuộc sống... Có mấy ai nhận biết được tất cả vạn vật trong vũ trụ luôn biến dịch không ngừng. Trong vô minh, chúng ta bị tách biệt ra khỏi bản chất của con người và thường bị nhấn chìm trong tư tưởng sai lầm của tự ngã. Những tín đồ Phật giáo tin rằng tâm của tất cả chúng sanh hoàn toàn liên hệ hỗ tương lẫn nhau, hoặc là có ý thức nhận biết hoặc không có. Bởi vì mỗi chúng sanh là mỗi mức độ hoạt động và hệ thống tiếp nhận trong xã hội liên hệ với nhau tạo nên nền hòa bình thực sự, nhưng mỗi người phải ở một mức độ thích hợp do chính con người xây dựng nên. Nếu tin mù quáng về vô minh với tâm chân thật, chúng ta luôn lệ thuộc nhau và tiếp cận nhau, mà căn bản vô minh đã nắm giữ sự tách biệt giữa hai phạm trù thiện-ác, được-mất, hơn-thua, ngã-vô ngã, tham-vô tham, v.v… Nếu chúng ta không nhận biết rõ ràng thì sẽ rơi vào tà kiến si mê. Như vậy, nhờ thực hành thiền quán và thâm hiểu lý Duyên khởi, chúng ta mới có thể thoát khỏi mọi ràng buộc của thế gian. Bởi vì, vô minh là một trong Mười hai nhân duyên, không phải là nguyên nhân đầu tiên, mà là yếu tố đầu tiên quyết định tất cả mọi hoạt động của mười một chi phần còn lại. Do đó, theo Aldous Huxley: “Những ai đã lầm lạc tin tưởng một nguyên nhân đầu tiên thì nhất định không bao giờ có thể trở thành một nhà khoa học. Tuy nhiên, vì không biết khoa học là gì nên họ không ngờ họ đánh mất một điều gì đó. Ở phương Tây, lối giải thích các hiện tượng bằng cách qui chiếu về một nguyên nhân đầu tiên quả không còn hợp lý nữa, dầu ở trường hợp nào. Chúng ta không bao giờ thành công trong việc cải biến một kỷ nguyên sắt thành một kỷ nguyên vàng, cho đến khi nào chúng ta từ bỏ tham vọng tìm ra một nguyên nhân duy nhất cho tất cả mọi phiền não trong đời và chấp nhận sự hiện hữu của nhiều nguyên nhân đồng tác thành trong một lúc, chấp nhận sự liên hệ mật thiết, phức tạp, tương ứng của hành động và phản ứng của hành động”. (Ends and Means - London)
Học thuyết chính của đức Phật về “Duyên khởi” là động lực giúp cho các hiện tượng vạn vật trong vũ trụ có mối tương quan mật thiết với nhau. Sự hiểu biết thấu đáo và sự thực hành chuyên nhất sẽ giúp chúng ta vượt ra khỏi định kiến ích kỷ do tham, sân, si gây nên. Do đó, sự nhận biết về trạng thái này là triết lý Phật giáo quan trọng nhất đạt đến hòa bình, an lạc ngay trong hiện tại, nhưng đây chỉ là điểm khởi đầu. Tuy nhiên, không ai có thể đi ngược dòng thời gian, dầu là khởi điểm của một giọt nước, một hạt sương… cũng phải có nơi phát xuất, huống chi là loài người. Vì đó là thực thể thường tồn, bất di bất dịch, mà cũng là một sự trở mình không dứt, một sự trôi chảy luôn tiếp diễn của những biến đổi không ngừng. Hơn thế nữa, tất cả vạn vật trên thế gian đang bị thiêu đốt. Tất cả đều nằm trên ngọn lửa cháy bừng. Và cái “tất cả” ấy là gì? Tại sao đang bị thiêu đốt? Đó chính là ái, thủ, hữu... sanh ra tham vọng và quyền lực. Ngày nào còn nhiên liệu thì ngọn lửa vẫn ngấm ngầm bên trong, càng châm nhiều nhiên liệu thì lửa càng cháy mạnh. Phải chăng, ngọn lửa của cuộc sống thực tại cũng đang cháy ngầm dường thế ấy. Con người hầu như không biết đủ, hằng ngày chỉ sống trong tham cầu và hưởng thụ. Ngày nay, nếu xã hội toàn là những thành phần tư lợi cho riêng mình thì người dân có được ấm no không? Hoặc nếu được thỏa mãn tham vọng, con người càng tự ràng buộc mình vào bánh xe luân hồi, càng bị giày vò tâm trí và khổ sở quằn quại thì mang lại lợi ích gì cho xã hội?
Như thế, con đường hướng đến hòa bình, trong thời đại hiện nay, Phật giáo đã đi vào cuộc đời, mang lại lòng tin trong chánh pháp và tạo dựng mối quan hệ với thế giới quanh ta. Một số người hiểu sai lầm về đạo Phật, cho rằng Phật giáo tách rời xã hội, không mang lại ích lợi cho quần chúng hoặc nếu có chỉ ở mức độ bình thường mà thôi. Chính những ý tưởng đó là hậu quả nghiêm trọng về sự thất bại trong mọi lĩnh vực khi tiếp xúc với cuộc đời, điều này hoàn toàn trái ngược với chân lý của đạo Phật. Như vậy, làm thế nào để người dân được an cư lạc nghiệp?
Ở đây, chỉ chú trọng đến quyền lực và mâu thuẫn được xem như là kết quả nhận định về vô minh của mỗi cá nhân. Bên cạnh đó, việc quan sát xã hội để giải quyết những mâu thuẫn, thì Phật giáo đã ứng dụng giáo lý của đức Thế Tôn vào quần chúng nhân dân bằng những buổi thuyết pháp hợp với căn cơ trong thời đại hiện nay. Đặc biệt, ở phương Tây thường gọi là Phật giáo nhập thế, các bậc Tôn túc lãnh đạo Phật giáo thường quan tâm đến những người Phật tử có tâm huyết với đạo Phật, chính quý ngài là những người tìm cầu giải pháp thích hợp bằng các buổi tọa thiền hoặc thuyết pháp ngay trong nhà tù… ứng với mỗi tình huống xảy ra, ảnh hưởng đến nỗi thống khổ và bất bình của người dân. Phương pháp này thích ứng với hoàn cảnh mới của Đạo đức học Phật giáo. Phật giáo nhập thế nhận biết và tìm ra nguyên nhân gây ra khổ đau cho con người, chính là tham ái và vô minh. Việc mở rộng quan niệm xóa bỏ giai cấp về sự bất bình đẳng, chiến tranh và bạo lực trong xã hội, kinh tế cũng như chính trị đã giảm bớt phần nào quan niệm phân chia giai cấp, bất bình đẳng đối với hạng người cùng đinh. Trước sự phân tích tiến trình Phật giáo phát triển, đạo Phật đã tìm ra con đường hợp với chánh pháp qua các hoạt động lợi ích xã hội, là chí nguyện cao cả của người con Phật. Vì thế, chúng ta luôn trau dồi tinh thần truyền thừa chánh pháp; phương cách giải quyết các mâu thuẫn làm xung đột quyền lợi của người dân; làm thế nào để xã hội luôn tạo điều kiện thuận tiện cho Phật giáo hoạt động ngày càng thăng hoa trên con đường Hoằng pháp lợi sanh?
Ngày nay, Phật pháp truyền bá đến nhiều khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt Phật giáo đang phát triển mạnh mẽ ở các nước phương Tây. Riêng tại Việt Nam, Tăng Ni Phật tử cũng đã thực hiện nhiều chuyến hoằng pháp đến vùng sâu vùng xa vào những ngày lễ lớn như Đại lễ Phật đản, lễ Vu Lan báo hiếu. Phật giáo Việt Nam cần phát huy hơn sứ mệnh hoằng pháp trong tinh thần “vị tha vô ngã”, để đem lời Phật dạy đến mọi vùng miền trên đất nước Việt Nam, nhằm đem lại niềm an lạc và hòa nhập xã hội cho những ai đang khao khát được nghe pháp âm vi diệu của đức Từ Phụ. Ở những vùng hẻo lánh xa xôi, nên tổ chức nhiều buổi học giáo lý dành cho Phật tử nhằm mở mang và trau dồi kiến thức Phật học căn bản như ăn chay, niệm Phật, thọ Bát quan trai, thọ Tam qui Ngũ giới… Đó là nền tảng cho hàng Phật tử gieo thiện căn với Phật pháp. Đặc biệt, đối với những vị Tăng Ni trẻ ngày nay có khả năng truyền thừa chánh pháp nên tự nguyện tham gia tổ chức bằng cách dạy giáo lý cho các em gia đình Phật tử, cùng chia sẻ những kinh nghiệm trong tu học cũng như kinh nghiệm sống hợp với tâm lý của tuổi trẻ ngày nay, để Phật pháp được lưu truyền mãi ở thế gian. Nhất là các lớp huấn luyện dành cho các Huynh trưởng được tổ chức rộng rãi bao gồm tất cả các quận, huyện trong thành phố nói riêng và cả ba miền nói chung. Từ đó, các huynh trưởng có thể tổ chức thành từng nhóm, phân chia trách nhiệm hợp với từng địa phương để sinh hoạt Gia đình Phật tử ở vùng sâu vùng xa trong bước đầu mới thành lập. Tuy nhiên, cũng cần sự khích lệ tinh thần của các bậc Tôn túc lãnh đạo và tạo điều kiện thuận lợi cho các huynh trưởng phát huy vai trò của mình. Thiết nghĩ, những phương hướng đề xuất trên nên được thực hiện và duy trì mạnh mẽ qua cái nhìn khách quan trên tiến trình phát triển của Phật giáo hiện nay.
Như vậy, toàn bộ giáo lý căn bản không ngoài lý Duyên khởi, từ vô minh đến lão tử là một chuỗi móc xích tạo ra khổ đau mà chúng sanh cứ mê mờ chấp là thật có nên không thể giải thoát ra khỏi định kiến sai lầm. Khi chúng ta ứng dụng giáo lý Duyên khởi hợp với thời đại, khế lý khế cơ, có sức thuyết phục cao trong nhiều lĩnh vực thì việc cải thiện xã hội, hòa hợp dân tộc là điều tất yếu và đạt hiệu quả thích ứng. Ðối với người Phật tử thâm hiểu giáo lý của đức Phật, niềm lo âu về đời sống hẳn không phải chỉ tìm cầu miếng cơm manh áo, đến chùa để tranh luận suông hoặc mãi mê du hành đến tận thế giới ảo tưởng cao xa kỳ lạ, mà là thành đạt hạnh phúc thật sự và thoát khỏi mọi đau khổ chính là nhờ thực hành giáo lý Duyên khởi. Như vậy, Duyên khởi đề cập đến nguyên nhân gây ra khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau - là quan niệm chính yếu của Phật giáo, và cũng là con đường dẫn đến hòa bình, an sinh xã hội.
Tuệ Giác
[Tập san Pháp Luân - số 64, tr38, 2009]