Tết Nguyên Đán là tiết lễ đầu tiên trong năm, mở đầu cho một năm mới với bao niềm tin và hy vọng về những thay đổi tốt lành.
Tết Nguyên Đán là tiết lễ đầu tiên trong năm, mở đầu cho một năm mới với bao niềm tin và hy vọng về những thay đổi tốt lành. Sau một năm tảo tần, vất vả làm ăn, “năm hết Tết đến” là dịp để mọi người nghỉ ngơi và sum họp. Tết là một sinh hoạt văn hóa với nhiều ý nghĩa vô cùng thiêng liêng và cao quý.
Quanh năm suốt tháng, mọi người đều phải lo làm ăn để kiếm sống, có người phải đi làm ăn nơi đất khách quê người. Vì thế, ngày Tết là ngày để mọi người được đoàn tụ dưới mái ấm gia đình của mình. Hầu hết mọi người, dù có khó khăn đến đâu, dù cách xa đến đâu, họ cũng cố gắng trở về để cùng đón Tết với gia đình. Tất cả các thành viên trong gia đình đều cùng nhau chuẩn bị cho ngày Tết. Các mẹ, các chị thì lo việc bếp núc, cổ bàn, còn những người đàn ông, con trai thì lo quét dọn nhà cửa, vườn tược, bàn thờ gia tiên cho trang nghiêm, sạch đẹp. Mỗi người một việc và mọi người đều làm việc trong niềm hân hoan, trịnh trọng.
Mặc dầu ngày nay xã hội phát triển hơn trước, nhiều người rất bận rộn trong công việc, thế nhưng phần lớn các gia đình đều có làm các món thực phẩm truyền thống, những món ăn dân tộc trước thì để cúng tổ tiên, sau là để ông bà, con cháu cùng thưởng thức, cùng ôn lại những giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc.
Ngày thường, rất hiếm khi tất cả các thành viên trong gia đình có mặt đông đủ. Chỉ có ngày Tết mọi người trong gia đình mới có cơ hội để quây quần bên nhau, cùng ăn cơm với nhau và cùng nhau hàn huyên tâm sự, chia sẻ và cảm thông cho nhau. Do vậy, ngày Tết là ngày của sự đoàn tụ, là ngày để mọi người trở về với gia đình huyết thống của mình. Sự trở về này làm cho mọi người cảm thấy ấm áp tình người, không còn thấy mình bị lạc lõng, bơ vơ giữa dòng đời. Nó nuôi dưỡng và làm cho tình thương yêu được đơm hoa, kết trái.
Cùng với sự trở về với gia đình huyết thống là sự trở về với gia đình tâm linh. Từ rất xa xưa, người Việt chúng ta đã biết thờ cúng ông bà, tổ tiên của mình. Dù có nghèo khó đến mấy, mọi gia đình đều cố gắng sắm sửa một vài mâm cổ để cúng ông bà, tổ tiên, mời ông bà tổ tiên cùng về đón Tết với con cháu. Việc làm này đã tác động sâu sắc vào tâm thức của những người con đất Việt, nhắc nhở mọi người nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của ông bà, cha mẹ, làm cho lòng hiếu thảo trong mỗi người con được tiếp thêm chất dinh dưỡng, được nuôi lớn không ngừng.
Có một việc làm vô cùng ý nghĩa, nó thể hiện sự trở về với gia đình tâm linh của người Việt trong ngày tết, đó là việc đến chùa lễ Phật. Ngày đầu năm đi chùa lễ Phật đã trở thành một tập tục của người dân nước ta. Phần lớn người dân Việt, dù theo đạo Phật hay không theo đạo Phật, họ đều đến chùa vào ngày đầu năm. Mọi người đến chùa để lễ Phật, để cầu nguyện và hái lộc đầu Xuân. Đối với người Việt chúng ta, ngày đầu năm có ý nghĩa rất quan trọng, nó có thể ảnh hưởng đến đời sống của bản thân suốt cả một năm. Vì thế mọi người đã tìm đến với chốn thiền, nơi trang nghiêm, thanh tịnh để gột sạch thân tâm. Khi lễ Phật, thân quỳ trước đức Phật nên thân nghiệp được thanh tịnh, miệng xưng tán danh hiệu Phật và phát lời cầu nguyện chân chính nên khẩu nghiệp được thanh tịnh, tâm ý duyên theo danh hiệu Phật và lời cầu nguyện nên ý nghiệp được thanh tịnh.
Người xưa đã từng dạy: “Kính thầy mới được làm thầy”. Lời dạy này rất là chí lý. Tại vì một khi mình kính trọng ai có nghĩa là mình cảm phục trước những điểm tốt của người đó và mình muốn bản thân mình cũng có những điểm tốt như họ, chính vì thế mình sẽ cố gắng để học theo những điểm tốt ấy và đến một lúc nào đấy thì những điểm tốt của người kia cũng được thành hình ở trong mình. Cho nên nếu chúng ta thường xuyên lễ Phật thì chúng ta sẽ huân tập được những hạt giống đạo đức, chủng tử tốt lành vào trong tàng thức của mình. Thường cung kính bậc đức hạnh thì mai sau ta sẽ trở thành người đức hạnh. Lễ Phật để tỏ lòng kính trọng đấng giác ngộ với trí tuệ và lòng từ bi vĩ đại. Lễ Phật sẽ giúp ta vơi dần tâm kiêu mạn. Lễ Phật là để bày tỏ lòng biết ơn đối với đấng giác ngộ đã từ bi dạy dỗ cho chúng ta tỉnh giác, chỉ đường cho chúng ta đi đến bến bờ an vui, hạnh phúc. Lễ Phật để nguyện học tập theo công hạnh của đức Phật. Và lễ Phật cũng là để quay lại với tánh giác của tự tâm, cố gắng nỗ lực tu tập để buông bỏ vọng tưởng và trở về với chân tánh của mình.
Còn cầu nguyện? Ta cầu nguyện Tam bảo gia hộ cho căn lành them tăng trưởng, tâm đạo vững bền để tấn tu đạo nghiệp, sớm “xa rời đau khổ chốn trần lao, chóng quay về bờ giác”. Cầu nguyện Tam bảo gia hộ để mình phát tâm dũng mãnh, hành Bồ-tát đạo nhằm làm lợi ích cho muôn loài. Như vậy sự cầu nguyện nhằm đem lại an lạc cho chính mình và cho mọi người. Nguồn an lạc này xuất phát từ lòng thương yêu nên chân thật, thường hằng. Cầu nguyện như thế không những an vui ngày đầu xuân mà còn trọn năm, trọn đời và cả kiếp vị lai nữa. Nếu lễ Phật và cầu nguyện như vậy thì không có gì là sai lạc cả. Phước đức của việc lễ Phật và cầu nguyện từ đó mà sanh trưởng. Còn nếu lễ Phật và cầu nguyện với mục đích cầu danh lợi cho thỏa lòng tham thì không bao giờ được toại nguyện vì đức Phật không phải là đấng thần linh có quyền ban phước giáng họa và lòng tham của con người thì không có đáy.
Theo quan điểm của đạo Phật, cầu nguyện là một phương pháp tu tập. Khi cầu nguyện thì tâm ta tập trung vào một điểm duy nhất, dồn sức mạnh của tinh thần trong khi tu tập để chuyển đổi quan niệm mê lầm, bất thiện trở nên trong sáng và lương thiện. Vì thế cầu nguyện chính là phương pháp phản quan tự kỷ, nhìn lại con người thật của mình, nhìn vào bên trong tâm ý của mình, gạt bỏ bớt những vọng niệm. Đó là một cách an định thân tâm để chuyển hóa tự thân và tha nhân.
Ngày Xuân đi chùa ngoài việc lễ Phật và cầu nguyện, mọi người còn có thói quen hái lộc đầu Xuân. Người ta hái một nhánh lá, một cành hoa trong vườn chùa với niềm tin là sẽ được may mắn, an lành trong một năm. Như trên chúng ta đã thấy, tịnh tu ba nghiệp, chuyển hóa thân tâm là hạt nhân đưa đến sự an vui, hạnh phúc. Nên việc xin lộc đầu Xuân nơi vườn chùa cũng có một ý nghĩa cao siêu, mầu nhiệm, mong sao năm mới có được một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Như vậy, Tết là một dịp tốt để mọi người trở về với gia đình tâm linh, sống với đời sống tâm linh của mình. Sự trở về này đã tiếp thêm sức mạnh cho mọi người trong cuộc sống, giúp mọi người tự tin hơn và lạc quan hơn trước những biến cố của cuộc đời.
Không những thế, ngày Tết còn là dịp nhắc nhở mọi người nhớ đến những vị ân nhân của mình và cũng là dịp để thể hiện lòng biết ơn. Người Việt chúng ta đã nhắc nhở nhau rằng :
“Mồng một ăn Tết nhà cha
Mồng hai nhà mẹ, mồng ba nhà thầy.”
Qua đây cho chúng ta thấy rằng, người Việt Nam rất trọng hiếu đạo. Làm người thì điều quan trọng nhất là phải hiếu thảo với cha mẹ. Cha mẹ là người sanh ra ta, giáo dưỡng ta nên người, đã chịu không biết bao nhiêu cay đắng để cho chúng ta có được một cuộc sống ngọt bùi. Cha mẹ đã hy sinh cả cuộc đời mình cho con. Vì thế, làm con thì phải hiếu thảo với cha mẹ, ngày đầu năm phải thăm viếng cha mẹ, mừng tuổi cha mẹ, phải chăm lo cho cha mẹ để cha mẹ được vui lòng.
Sau cha mẹ là người thầy. Cha mẹ là người sanh ra ta, còn thầy là người tác thành sự nghiệp cho ta, dạy cho ta biết những điều hay, lẽ phải trong cuộc sống. Ân tình của thầy cũng vô cùng sâu nặng. Cho nên làm người thì phải biết đền đáp công ơn dạy dỗ của thầy. Một trong những cách thức thể hiện lòng biết ơn và đền ơn đối với thầy là phải thăm viếng thầy vào dịp đầu Xuân. Người học trò không nhất thiết phải đem mâm cao cỗ đầy đến cho thầy, chỉ cần đến với thầy bằng tấm chân tình thì dù không có một món quà nào cả cũng đủ làm ấm lòng thầy, đủ làm cho thầy hạnh phúc lắm rồi.
Sự viếng thăm những người thân, những vị ân nhân trong ngày Tết là một nghĩa cử cao đẹp.
Và có một điều mà người Việt chúng ta cũng rất chú trọng trong dịp Tết, đó là sự thận trọng trong mọi cử chỉ, hành vi của mình. Bởi mọi người nghĩ rằng, những gì diễn ra trong ngày đầu năm sẽ ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của năm đó, cho nên mọi người rất thận trọng trong lời nói, cách ứng xử của mình và trong việc làm của mình. Ngày tết, mọi người kiêng cử những lời gắt gỏng, những hành động, việc làm thô lỗ như chửi mắng, đánh đập… Dù cho trong năm cũ có những sự hiểu lầm, thù oán hay ganh ghét, đố kỵ nhau thì đến ngày Tết người ta cũng vui vẻ bỏ qua cho nhau, mọi người thường nhắc nhở nhau rằng, “Giận đến chết, ngày Tết cũng vui”. Đây chính là sự biểu hiện của một sức sống cộng đồng thân ái, bao dung, độ lượng và đầy trách nhiệm.
Trong những ngày Tết còn có nhiều trò vui chơi giải trí, các hội thi bình dân, lành mạnh và bổ ích để cho mọi người có thể vui chơi, như là đua thuyền, thi đấu vật, chọi trâu, thi đấu bóng đá, bóng chuyền, kéo co... Các cuộc thi này bao giờ cũng thu hút đông đảo người xem.
Tục xin chữ ngày Tết, treo câu đối đỏ, treo tranh thư pháp... cũng là những thú chơi tao nhã và mang nhiều ý nghĩa cao quý. Đầu năm người thường xin chữ nhẫn, chữ phúc, lộc, thọ, chữ tâm, chữ đức... Những chữ này cũng như nội dung của các câu đối, các câu thư pháp đều chứa đựng trong nó những ý nghĩa sâu sắc. Ngoài những câu có nội dung cầu chúc những điều may mắn cho năm mới, còn lại phần lớn là những câu, những chữ có tác dụng giáo dục đạo đức, tình cảm cho con cháu trong gia đình.
Những nét đẹp trong nếp sống ngày Tết của nhân dân ta có vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ. Giữ gìn và phát huy những nét đẹp ấy là một việc làm có ý nghĩa, góp phần làm cho bộ mặt và bản sắc văn hóa Việt thêm phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, văn minh, và tốt đẹp hơn. Những bậc phụ huynh, những người làm công tác giáo dục, công tác văn hóa phải là những người đi đầu và làm gương trong việc giữ gìn và phát huy những nét đẹp trong nếp sống ngày Tết của người Việt. Và tất cả mọi thành viên trong xã hội cũng phải nêu cao ý thức này. Có như thế đất nước ta mới có thể càng ngày càng tiến bộ, càng ngày càng văn minh, hạnh phúc.
Thích Quảng Trí
[Tập san Pháp Luân - số 23, tr.15, 2006]