Kinh mở dây trói

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Hãy tưởng tượng xem việc gì sẽ xảy ra nếu bạn lấy sáu sợi dây thừng, cột mỗi đầu sợi dây vào một trong sáu con thú: một con rắn, một con cá sấu, một con chim, một con chó, một con lang (jackal), và một con khỉ. Rồi bạn cột sáu đầu dây kia lại với nhau vào thành một gút lớn và buông ra.

Bạn nghĩ việc gì sẽ xảy ra? Mỗi con thú sẽ lôi kéo đi về một hướng khác nhau, cố gắng chạy trở về nơi quen thuộc của chúng. Con rắn sẽ bò về hang của nó dưới một tảng đá hay thân cây, con cá sấu sẽ cố lôi đi về hướng dòng sông, con chim sẽ bay lên không trung, con chó sẽ chạy về nhà, con lang sẽ phóng về hướng có xác chết, và con khỉ sẽ cố trèo lên cây cao. Bạn có thể tưởng tượng ra một cảnh như vậy chăng?

Đức Phật kể câu chuyện này trong Tương Ưng Bộ Kinh (35.247) để diễn tả một tâm thức không tu tập, sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) ở mỗi khía cạnh nào đó bị lôi kéo theo các phạm vi nắm bắt quen thuộc và thói quen của chúng, đi tìm kiếm một thú vui, một cảm giác dễ chịu. Đức Phật nói tình trạng đó cũng giống như chúng ta đang sống với một tâm thức bị giới hạn, mà ở trong đó người ta hoàn toàn không có một sự tự tại giải thoát nào cả. Và Ngài chỉ cho ta một phương cách để giải quyết tình trạng ấy, là hãy đóng một chiếc cọc xuyên qua cái gút chính giữa ấy và giữ nó sâu xuống đất. Nó sẽ giúp ta buộc giữ sáu con thú ấy lại ở yên một chỗ. Chiếc cọc ấy tượng trưng sự chánh niệm ở nơi thân, và đó cũng chính là một phương tiện giúp ta đạt đến giải thoát.

Điều này có thể hiểu như thế nào? Chắc chắn là điều ấy sẽ hướng khái niệm giải thoát thông thường của chúng ta về điểm mấu chốt của nó, và nó nói lên một điều gì đó hoàn toàn trái ngược, nếu ta không muốn nói là rất mâu thuẫn! Thông thường thì chúng ta tự nghĩ rằng, giải thoát chỉ khi chúng ta có thể làm bất cứ một việc gì mà chúng ta muốn, và nếu như ta bị trói vào một cột trụ, loại bó buộc tồi tệ nhất. Nhưng chúng ta hãy nhìn hình ảnh ấy sâu sắc hơn và thử tìm hiểu xem đức Phật có ý gì ở đây!

Mỗi con thú ấy nghĩ rằng, giải thoát là khi nào nó có thể đi về nơi nó muốn, nhưng thật ra thì nó vẫn bị trói buộc qua nhiều cách. Trước hết là nó bị bản năng sai xử theo đuổi lạc thú và trốn tránh đau đớn. Kế đến là nó chỉ biết đi tìm sự thỏa mãn ở những nơi quen thuộc, theo tập quán cũ. Và sau hết, nó chỉ có thể tiếp cận với đối tượng ham muốn của mình nếu nó giành được lợi ích tạm thời trong cuộc quyết chiến với những con thú khác. Trong sự tranh chấp đó thì mỗi con thú sẽ cạn kiệt sức lực và cuối cùng là nó sẽ bị lôi kéo theo con thú nào mạnh nhất. Tôi thì sẽ đặt tiền cược của mình vào con cá sấu!

Sáu giác quan - thân và tâm - của chúng ta bị trói buộc bởi một sự trói buộc nội tại hấp dẫn hơn một sợi dây thừng hay một cây cột nào, đến mức là chúng sẽ luôn luôn bị lôi kéo về phía những đối tượng dễ chịu và tránh né những đối tượng khó chịu. Dưới cái nhìn của đức Phật thì sự giải thoát hành xử theo bản năng thúc đẩy của mình là một thứ giải thoát hão huyền, được giả đặt bởi tâm thức thiển cận và hết sức mê hoặc. Việc ấy cũng giống như ta bảo một người nghiện ma túy rằng, cô có thể dừng việc hút ma túy nếu cô muốn, hay nói với một người tù bị nhốt trên một hải đảo rằng, anh ta nên cảm thấy không bị ràng buộc để đi lại bất cứ nơi nào anh muốn trên hải đảo này.

Sự thực tập chánh niệm sẽ giúp mang lại cho ta những kiểm soát cần thiết để vượt qua được những lôi kéo của ham muốn trên các giác quan. Khi chúng ta ghi nhận được tâm mình đang lan man cuốn trôi theo một chuỗi tư tưởng vui thích nào đó, hay là khi ta ghi nhận được một sự thôi thúc nơi thân mình muốn nhúc nhích để được thoải mái hơn, chúng ta chỉ cần nhẹ nhàng buông bỏ những thúc đẩy đó, và trở về với sự thực tập tỉnh giác của mình. Chúng ta cứ tiếp tục thực tập như vậy hết lần này sang lần khác, cho đến khi tâm ta trở nên hoàn toàn bằng lòng với giây phút hiện tại, với những gì đang thật sự có mặt ngay bây giờ và ở đây, với những kinh nghiệm của mình, còn hơn là chạy theo một đối tượng kích thích nào đó. Và một khi tâm ta an tịnh, nó sẽ có nhiều năng lượng, và vì vậy mà nó cũng có thẩm quyền hơn.

Câu truyện đức Phật kể kết thúc bằng một hình ảnh của sáu con thú cùng nằm xuống yên ổn bên nhau một cách thú vị, chúng không còn lôi kéo nhau, không còn mong muốn một cái gì xa xôi khác nữa. Cũng vậy, khi sự giằng co giữa những ham muốn giác quan và ghét bỏ được lắng yên, khi hăng hái và biếng nhác trong ta quân bình, và khi những nghi ngờ được tạm thời để sang một bên, tâm ta sẽ có khả năng tiếp nhận một cách cởi mở hơn, và với một sự giải thoát rộng lớn hơn. Với các giác quan không còn cố gắng để đạt đến các trạng thái an vui và không còn nhàm chán đối với các trạng thái buồn, thì lúc ấy tâm có thể nhìn thấy các pháp sanh diệt một cách rõ ràng hơn.

Và trong trạng thái ấy tâm ta sẽ trở nên không bị giới hạn, nhờ vào tuệ giác, tâm có thể kinh nghiệm được một sự giải thoát hoàn toàn. Sự giải thoát của tâm không xuất phát từ một kế hoạch thăm dò đại thể về địa hình nhỏ hẹp, được chỉ định theo những gì mình ưa thích hoặc tránh né những gì mình ghét bỏ, mà đúng hơn là nó hoàn toàn xuất phát từ khả năng giũ sạch sự câu thúc của dục vọng, và có thể lao vào khảo sát cách một sâu sắc lãnh vực kinh nghiệm đúng như sự thật. Và ta sẽ khám phá ra rằng, những gì (what) chúng ta tiếp nhận, như là thấy, nghe, nếm, ngửi, xúc chạm, hoặc suy nghĩ, thật ra chúng không quan trọng bằng cách (how) chúng ta tiếp nhận chúng.

Chúng ta thường nghĩ giải thoát là tự do làm những gì mình muốn, nhưng đức Phật xem nó như là ly dục. Chúng ta cho rằng cây cột là một chướng ngại và giải thoát là khả năng để đạt được những đối tượng ưa thích của giác quan. Còn đức Phật nghĩ rằng sự rong ruổi theo những thú vui giác quan ấy lại là chướng ngại, trong khi cây cột chánh niệm lại biểu thị cơ hội để giải thoát mọi trói buộc của nó. Đây quả là một cách nghĩ khác về các pháp mà Ngài muốn chỉ dạy cho chúng ta thấy rõ mọi thứ khám phá có giá trị. Có lẽ giải thoát nội tại mới thật sự có giá trị cao tột hơn là cái giải thoát ở bên ngoài!

The Ties that Unbind
Nguyễn Duy Nhiên (phỏng dịch)

[Tập san Pháp Luân - số 39, tr.63, 2006]