Ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp lên nét điêu khắc ban đầu của Phật giáo

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Khởi sự từ thời xa xưa mỗi 4 năm một lần, Olympics được xem đã bắt đầu vào năm 776 trước Công nguyên và kéo dài trong hơn 1000 năm tại vùng đất thiêng Olympia là nơi diễn ra các cuộc tranh tài. (QA)

Ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp lên nét điêu khắc ban đầu của Phật giáo. (Tiếp theo)

Các đặc tính khác của nghệ thuật Hy Lạp cũng tìm đường thâm nhập vào nghệ thuật hình tượng của Phật giáo, đó là Hy Lạp tôn sùng mỹ lệ nhưng khi La Mã chiếm đoạt Hy Lạp thì ý niệm mỹ lệ dần dần biến thể thành ý niệm về sự tàn tạ, hư hao. Trong nghệ thuật Gandhara, điều nầy có thể nhìn thấy qua pho tượng tạc đức Phật trong giai đoạn tìm đạo và tu theo lối khổ hạnh. Nghệ thuật Gandhara đã tạo ra một số tác phẩm mô tả giai đoạn hành xác nầy rất tượng hình với thân thể gầy đét, khuôn mặt già nua, xương sống xương sườn trên người lộ rõ.

Hình người không phải là vật duy nhất được chuyển đi trên đường Tơ Lụa mà hình ảnh sư tử cũng được phô bày trong nghệ thuật Gandhara nói chung và nghệ thuật Phật giáo nói riêng. Sư tử là hình tượng đã có từ rất lâu, trước cả nghệ thuật Hy Lạp nhưng sư tử được xem như biểu tượng thiêng liêng của con người thì là chuyện lạ lùng. Tại Gandhara, người ta tìm thấy những tượng hay cặp tượng sư tử khắc trên đá như là biểu tượng của đức Phật, hay của giòng họ đức Phật, của vua Asoka, của người Kushan, và hình ảnh sư tử đã theo đường Tơ Lụa tới Trung Hoa, rất thịnh hành vào thời nhà Đường tức là vào thế kỷ thứ 7, 8, 9 sau Tây lịch. Tượng sư tử được dựng ở đền đài, cung điện của thiên tử, sau biến thể thành Lân múa ngày Tết. Dĩ nhiên Trung Hoa không có sư tử mà hình ảnh con vật nầy trong văn hóa Trung Hoa bắt nguồn từ một loạt hình tượng của nghệ thuật Phật giáo tại Gandhara vốn chịu ảnh hưởng của Hy Lạp, được chuyển đi tới lui qua lại trên đường Tơ Lụa.

Lịch sử của các thành phố ở Trung Á (Central Asia) ghi lại đặc tính khoan hòa cao độ. Một phần lớn có thể vì đây là những thành phố nằm trên đường giao dịch buôn bán, lòng cuồng tín tôn giáo không mang lại lợi nhuận, phần khác có thể vì nhiều người tị nạn chạy tới các thành phố nầy nên họ có khái niệm là óc tín ngưỡng hẹp hòi sẽ không đem lại lợi ích ấm no.  Kết quả các cuộc đào xới, khai quật trong khắp vùng Trung Á cho thấy nơi đây hết sức khoan hòa về mặt tôn giáo, có mặt đủ mọi tín ngưỡng tại các thành phố nầy. Tính cách khoan hòa trên đây kéo dài trong một thời gian khá lâu, từ lúc các thành phố được tạo lập cho tới thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, lúc mà ảnh hưởng mỹ thuật của Hy Lạp trở nên mạnh mẽ, sau đó kéo dài đến tận lúc Hồi giáo bắt đầu du nhập vào Trung Á, sự khoan hòa chấm dứt vào thời nhà Đường ở Trung Hoa tức là thế kỷ thứ 8 sau Tây lịch.

Trong khoảng thời gian rất dài nầy, các tôn giáo sinh hoạt cạnh nhau rất hòa thuận, hình tượng của các niềm tin khác nhau được nghệ nhân tạo nên, chẳng hạn như tượng nữ thần 4 tay ngồi trên lưng sư tử ở một nơi gần thành phố Samarkhan vào thế kỷ 7 sau Tây lịch. Mặt khác, mảnh thảm dệt cũng ở vùng nầy vào thế kỷ thứ 1 BC, mô tả các thần linh trong thần thoại Hy Lạp. Một mẫu vật khác do ngành khảo cổ tìm được là bức bích họa trên tường vào thế kỷ thứ 3 BC, đây là một phần của trọn bức vẽ dài với các hình tượng có đường nét hoàn toàn của La Mã, “La Mã” đến nỗi người ta tự hỏi có nghệ nhân La Mã nào lạc loài đến đây trong thời kỳ nầy để sáng tạo ra tác phẩm trên và tiếp tục tạc tượng, vẽ bích họa, đắp phù điêu theo đường nét của La Mã và Hy Lạp hay không?

Một chứng cớ của việc có nhiều tôn giáo hiện diện trong vùng được thấy ở 2 địa điểm khác của Trung Á, một nơi là Turfan, người ta tìm thấy vết tích của Thiên Chúa giáo lúc ban đầu với đồ vật mô tả tín đồ cử hành lễ Lá, nơi khác thì đào xới được tượng đẹp đẽ bằng đất sét của vị Bồ-tát đắp theo kiểu thức Kushan, tại Uzbekistan thì có những miếu thờ của đạo Phật, nói chung tôn giáo đã theo việc giao thương trên đường Tơ Lụa mà lan đi khắp nơi trong vùng. Tại Tây Ấn (thời nhà Đường ở Trung Hoa) vào thế kỷ thứ 7, 8, người ta dễ dàng tìm thấy nơi đó nhà thờ Thiên Chúa giáo, thánh đường Mosque của Hồi giáo, thánh đường Synagogue Do Thái giáo, miếu thờ của Khổng giáo, nói chung là các tôn giáo, niềm tin đều có mặt ở Tây Ấn, không chỗ nầy thì chỗ kia trong thành phố. Vì vậy không có gì ngạc nhiên là mỹ thuật Hy Lạp dưới hình thức nầy hay hình thức nọ, đã được truyền đi trên cùng lộ trình qua các hình tượng điêu khắc mọi loại hay ảnh hưởng đến nghệ thuật địa phương.

Nói chung thì việc lan truyền hình tượng Phật giáo ở các nơi xa xôi, một phần là do việc buôn bán theo đường Tơ Lụa, một phần là do các nhà sư từ Trung Hoa len lỏi vào các nơi xa xôi, ngược xuôi trên đường Tơ Lụa sưu tầm kinh điển. Thí dụ nổi tiếng nhất là ngài Huyền Trang thời nhà Đường sang Ấn Độ thỉnh kinh, cuộc hành trình gian khổ nầy đã gợi hứng cho văn sĩ Trung Hoa viết nên chuyện Tây Du Ký. Tuy nhiên khi ngài Pháp Hiển vào thế kỷ thứ 5 và sau đó là ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ 7, vào tới Gandhara thì đạo Phật và nghệ thuật Phật giáo đã suy tàn, biến mất ở nơi đây. Những vùng mà 2 nhà sư đi qua chỉ còn là phế tích hoang tàn của cộng đồng Phật giáo phồn thịnh khi trước, không còn chùa hay tự viện, không còn tăng sĩ, không còn nghệ thuật Phật giáo nữa, chỉ còn lại dấu vết, hình ảnh, tượng thờ tại Gandhara mà thôi. Nếu các nhà sư đầu tiên mang kinh điển Phật giáo vào Trung Hoa là người Kushan hay ngay cả người Parthian (Tây Hạ) là một bộ lạc ở vùng giáp ranh với Afghanistan và Pakistan, thì về sau nầy, các nhà sư Trung Hoa đi tới Kushan tìm Chân kinh, ngoài kinh điển, họ còn mang về nước các hình tượng như đàn tràng Mandala, tượng nhà sư, xâu chuỗi, nhưng trên hết vẫn là tượng đức Phật và đó là kiểu thức của mỹ thuật Hy Lạp. Chúng ta thử xem qua ảnh hưởng của mỹ thuật Hy Lạp như thế nào.

Trước tiên là tượng ngồi của nữ thần Hy Lạp với dáng điệu đặc biệt của đôi tay, 1 tay duỗi thẳng ra, 1 tay giơ lên cao, thong dong, thanh nhã, duyên dáng. Kiểu thức nầy được lập đi lập lại nhiều lần trong nghệ thuật Phật giáo, từ Trung Hoa sang tượng đồng của Triều Tiên, Nhật Bản vào thế kỷ 6 qua các tượng Quán Thế Âm hay vị Phật tương lai của đời sau là đức Di Lặc.

Kiểu thức khác đáng đề cập đến là tượng Phật tại Afghanistan vào thế kỷ thứ 6. Lúc ban đầu, đường nét của tượng thần Hercules và đường nét của các lực sĩ đã được dùng để tạc tượng đầu của đức Phật với nét mặt Tây phương như xương hàm rộng, gương mặt chữ điền, mắt sâu và mũi cao kiểu tây phương hay áo choàng dài cổ rộng và rũ xuống với những nếp gấp nhưng từ từ về sau, dù rằng đường nét của khuôn mặt đức Phật dần dà có nhiều nét Á châu hơn, nhưng đường nét Hy Lạp nầy vẫn được dùng cho các hình tượng khác của nghệ thuật Phật giáo như tượng thần Hộ Pháp, tượng chư Thiên...

Nghệ thuật Phật giáo tiếp tục nẩy nở ở Trung Hoa và Nhật Bản, khởi đầu từ mỹ thuật ở Gandhara rồi về sau, khi đường Tơ Lụa chấm dứt, cộng đồng Phật giáo dọc theo đường nầy tàn lụn và Phật giáo tại Trung Hoa bị cắt đứt với kinh điển ban đầu và mỹ thuật Phật giáo ban đầu thời Kushan, thì nghệ thuật Phật giáo ở Trung Hoa và Nhật Bản tiếp tục dựa trên kiểu thức của mỹ thuật Hy Lạp trong việc tạo hình tượng Phật giáo theo lý tưởng về mỹ lệ của Hy Lạp. Có nhiều hình tượng diễn tả ý niệm nầy, thí dụ như tượng đức Bồ-tát với đường nét uyển chuyển, tăng bào được tạc mềm mại uốn theo gió. Tới thời nhà Tống, từ thế kỷ thứ 10 -13, Phật giáo biến mất ở nơi phát sinh là Ấn Độ, đường Tơ Lụa hoàn toàn ngưng hoạt động, các thành phố trên đường nầy đã trở thành một phần của thế giới Hồi giáo và trong khi mỹ thuật Hy Lạp thời Trung Cổ bị lãng quên tại Âu châu thì mối liên hệ với mỹ thuật Hy Lạp vẫn được duy trì ở Trung Hoa và Nhật Bản theo cái lý tưởng về mỹ lệ thiêng liêng, về hình ảnh một thần linh mà bất cứ chúng sinh nào cũng có thể trở thành.

Hình ảnh một thần linh vừa thiêng liêng vừa trừu tượng vẫn còn sống động ở phương Đông. Cái lý tưởng của Hy Lạp về nét đẹp con người và nét đẹp thiêng liêng cùng với quan niệm của Phật giáo về cái đẹp đã gặp nhau, hòa hợp nhau tạo ra những hình tượng tôn nghiêm xinh đẹp như người ta nhìn thấy nơi các tượng Quán Âm bằng đồng làm vào thế kỷ thứ 12 đời Tống. Tóm lại, ý niệm về mỹ lệ thời cổ Hy Lạp trong một thời gian dài đã ảnh hưởng và tạo nên các hình tượng Phật giáo, một tôn giáo và một xã hội khác biệt, xa lạ với quan niệm của Hy Lạp. Đó cũng là điều thú vị khi mùa Thế Vận Hội khai diễn tại Athens, chúng ta có dịp nhớ về một thời đã qua trên con đường Tơ Lụa (Silk Road), nơi đó mỹ lệ của Hy Lạp ở phương Tây xa xôi đã ảnh hưởng đến mỹ thuật Phật giáo tận phương Đông.

Quảng Anh.(Hết)

Hình ảnh và tài liệu tham khảo:

- Wood, Frances. The Silk Road, the Folio Society, London, 2002.

- Feltham, Heleanor. Bài thuyết trình trong cuộc triển lãm Treasures of Ancient Greece tại Bảo Tàng Viện PowerHouse Museum, Sydney, 2000.

- Cuộc Triển Lãm Buddha – Radiant Awakening tại Viện Triển Lãm Nghệ Thuật Art Gallery of New South Wales, Australia, 2001.

Chú thích:
Hình4: PAKISTAN (Gandhara, thời kỳ Kushan), thế kỷ thứ 3 Tây lịch. Bức phù điêu diễn tả cảnh đức Phật trở về trái đất từ cõi trời Đao Lợi, với sự hộ tống của vị trời Đế Thích Indra (bên trái đức Phật, cầm chày biểu tượng của Sấm Sét) và Phạm Thiên Vương Brahma (bên phải đức Phật).

Hình 5: PAKISTAN (triều đại Gandhara), Tượng Phật năm 150 Tây lịch. Tượng Phật nầy cho thấy ảnh hưởng của Hy Lạp – La Mã trên nét mặt và nếp gấp của bộ áo với bàn tay mặt đang biểu thị ấn Vô Úy abhaya mudra.

Hình 6: PAKISTAN (Gandhara), Tượng Bồ-tát Di Lặc ngồi tham thiền, thế kỷ thứ 2 Tây lịch. Vật cầm nơi bàn tay trái của pho tượng có lẽ thay cho một bảo tháp là biểu tượng của đức Di Lặc.

Hình 7: AFGHANISTAN (Gandhara), Tượng Phật vào thế kỷ thứ 6 Tây lịch. Đây là mẫu điêu khắc tượng Phật rất hiếm của thời cổ Gandhara mang đường nét Ba Tư (Iran) với vương miện trên đầu theo kiểu mẫu của vương quốc Ba Tư.

[Tập san Pháp Luân - số 5]