Truyền tâm ấn

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La thả lỏng giây cương. Con bạch mã thong dong bước qua cổng hoàng thành, đi về phía hoàng cung. Đám lính lệ cúi rạp, đỡ hoàng-tử xuống ngựa.

Khi hoàng-tử bước vào sân rồng thì đã thấy phụ hoàng là vua Hương Chí, hai hoàng huynh là hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La và Công-Đức-Đa-La đang cung kính tiếp chuyện một vị Tăng. Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La vội quỳ xuống đảnh lễ. Vua Hương Chí nói:

- Đây là Tổ Bát-Nhã-Đa-La mà cha cung thỉnh tới để được cúng dường Ngài.

Nghe danh xưng đó, hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La ngước lên. Ánh mắt của hoàng tử vừa chạm tới thần quang của Tổ thì lòng hoàng tử bỗng cực kỳ rung động, và một niềm vui bao la lan tỏa khắp châu thân. Tổ Bát-Nhã-Đa-La đưa tay ra, tỏ ý đỡ hoàng-tử đứng dậy. Lui về chỗ ngồi nhưng mắt hoàng-tử vẫn không rời vị sứ giả Như-Lai, người đang tỏa ánh sáng kỳ diệu như thể chiếu sáng được cả thế gian.

Tổ Bát-Nhã-Đa-La cũng không ngớt nhìn hoàng-tử. Với tuệ nhãn, Ngài vừa thấy được trí tuệ vô song của vị hoàng-tử nhỏ qua cung cách đảnh lễ rất khiêm cung mà lại vô cùng thư thái, tự tại. Ngài bèn giơ lên hạt minh châu quý giá mà vua Hương Chí vừa cúng dường và hỏi:

- Trên đời có thứ gì quý hơn hạt minh châu này không?

Hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La vòng tay thưa:

- Đây là hạt minh châu quý giá nhất, chỉ giòng vua Sát-Đế-Lợi mới có. Trên đời không gì có thể quý hơn.

Hoàng-tử Công-Đức-Đa-La cung kính tiếp lời anh:

- Bạch Tổ, đây là hạt minh châu chiếu sáng nhất. Không gì trên đời có thể chiếu sáng hơn hạt châu này.

Vua Hương Chí đưa mắt nhìn hoàng-tử út, chờ câu trả lời. Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La quỳ xuống trước Tổ mà thưa rằng:

- Hạt minh châu này rất quý, nhưng chưa phải là thứ quý nhất trên thế gian. Hạt minh châu này chiếu sáng, nhưng chưa phải là ánh sáng rực rỡ nhất thế gian. Bởi vì, hạt châu này không thể tự nó hiển hiện, nếu không nhờ trí tuệ giúp nó hiển bày; rồi nó cũng không tự biết nó là gì, nếu không nhờ trí tuệ giúp nó biết được nó là hạt minh châu. Biết mình là hạt châu rồi, nó cũng không tự biết nó quý giá, nếu không nhờ trí tuệ giúp nó biết giá trị của nó. Tóm lại, nhờ trí tuệ, hạt châu mới biết được mình là hạt châu quý giá, có thể tỏa chiếu ánh sáng. Nhưng ánh sáng đó cũng chỉ chiếu sáng cho chính nó mà thôi, nó chẳng làm sáng được viên đá, hòn sỏi nào để gần nó. Vì vậy, bạch Tổ, con nghĩ rằng, hạt châu này chưa phải là thứ quý nhất trên đời.

Tổ Bát-Nhã-Đa-La yên lặng mỉm cười. Nhưng nhà vua thì nóng nảy hỏi;

- Vậy thứ gì quý hơn hạt châu này?

Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La vòng tay thưa:

- Bạch Tổ, tâu phụ vương, trí tuệ là thứ quý hơn hạt châu này muôn ức lần. Trí tuệ chính là thứ quý nhất trên đời, vì có trí tuệ mới nhận ra được tự tánh, và nhận ra tự tánh mới giải thoát khỏi mọi trói buộc phiền não, mới đoạn diệt được luân hồi. Ánh sáng trí tuệ là ánh sáng rực rỡ nhất trên đời vì người có ánh sáng trí tuệ không chỉ soi sáng chính mình mà còn soi sáng cho người u tối, giúp họ đoạn trừ vô minh mà giác ngộ. Trí tuệ cũng là của cải bền vững nhất vì người đã có trí tuệ rồi thì không cảnh huống nào, quyền lực nào có thể lấy đi được.

Vua Hương Chí và hai hoàng tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La, Công-Đức-Đa-La cùng sửng sốt khi nghe câu trả lời của hoàng-tử út. Họ nhìn hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La như nhìn một người rất lạ, một người uyên bác thâm sâu mà trước đây họ không hề chú ý tới. Riêng tổ Bát-Nhã-Đa-La thì vẫn im lặng mỉm cười. Ngài nhớ lại khi xưa, sư phụ của Ngài là Bất-Như-Mật-Đa, trước khi thị tịch cũng phải biết, trong hàng đệ tử ai là kẻ xứng đáng để truyền tâm ấn, tiếp nối việc hoằng pháp độ sanh. Từ ngày Tổ được sư phụ truyền tâm ấn, ròng rã nhiều chục năm bôn ba hoằng pháp mà chưa tìm được đệ tử đủ công năng và trí tuệ để kế thừa Tổ vị. Hôm nay, cơ duyên đã tới rồi chăng?    

Sau khi vua Hương Chí băng hà, hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La lên nối ngôi thì hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La xin theo Tổ học đạo. Tổ Bát-Nhã-Đa-La không ngạc nhiên khi thấy hoàng-tử nhỏ tìm đến thiền đường, vì Tổ đã nhìn thấy căn cơ của hoàng tử qua cuộc trắc nghiệm về hạt minh châu. Tổ hoan hỷ nhận hoàng tử làm đệ tử và đặt hiệu là Bồ-Đề-Đạt-Ma.

Từ đó, Bồ-Đề-Đạt-Ma theo thầy hoằng pháp mấy mươi năm ròng.

Trước khi diệt độ, tổ Bát-Nhã-Đa-La gọi Bồ-Đề-Đạt-Ma đến mà nói rằng:

- Cơ duyên hóa thân của ta tới đây đã dứt. Xưa, Như-Lai trao truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng cho Tổ Ca Diếp, lần lượt nhiều đời nhiều kiếp, đến ta được nhận lãnh. Nay, con là đệ tử xứng đáng để ta truyền lại, con phải hết lòng gìn giữ và lưu truyền. Đó là trọng trách của kẻ được kế thừa tổ vị. Sau khi ta diệt độ rồi, con hãy tạm ở Nam Ấn mà hoằng pháp một thời gian, nhưng nhân duyên lớn của con lại ở tận nước Trung Hoa xa xôi. Con sẽ trải qua muôn vàn khổ hạnh trên đường khai tâm cho người dân xứ ấy. Ta sẽ phò trợ con. Vậy, hãy lãnh ý ta mà tuyên hành.

Bồ-Đề-Đạt-Ma sụp lạy sư phụ, nhận lễ truyền tâm cùng y bát của thầy mình để sau này làm ấn tín.

Và, đúng như điều tổ Bát-Nhã-Đa-La đã thấy trước, Bồ-Đề-Đạt-Ma chính là vị Tổ thứ nhất đã gieo hạt Thiền Tông Phật giáo ở Trung Hoa, và từ đấy ảnh hưởng trực tiếp đến những dòng thiền tại Nhật Bản, Triều Tiên và ngay cả Việt Nam.

Nhắc lại chuyện xưa để chúng ta có thể học được bài học đầu tiên nơi vị hoàng-tử nhỏ. Đó là, NHẬN BIẾT GIÁ TRỊ CỦA TRÍ TUỆ VÀ DÙNG TRÍ TUỆ ĐÓ NHƯ NGỌN ĐÈN, XUA TAN BÓNG TỐI TRONG TA VÀ QUANH TA.

Như một thiền sư đã nói, khi đèn được bật sáng, ta chỉ còn việc nhìn mọi vật cho tỏ tường, mà không bận tâm bóng tối rồi sẽ đi về đâu. Có phải vậy không, thưa chư liệt vị? r

Diệu Trân
[Tập san Pháp Luân - số 17, tr.10, 2005]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.