Nepal: Thánh địa Lumbini thúc đẩy sứ mệnh hòa bình của Liên Hiệp Quốc

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Ông Ban Ki Moon bày tỏ lòng kính ngưỡng sâu sắc đối với đức Phật và khẳng định giáo pháp của đức Phật sẽ mang lại hòa bình, hòa giải và hỗ tương giữa các tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa khác nhau trên thế giới. Và giáo lý của đức Phật sẽ thúc đẩy nhân loại theo đuổi một thế giới tốt đẹp, hòa bình và thịnh vượng hơn.

 

Nepal: Theo Kathmandu Post, ngày 01 tháng 11, Tổng thư ký Ban Ki Moon và phái đoàn Liên Hiệp Quốc đã viếng thăm Thánh địa Lumbini. Phát biểu với báo chí và những người tham dự, người đứng đầu tổ chức lớn nhất hành tinh này nói rằng đức Phật là bậc vĩ nhân điển hình cho sự từ bỏ hạnh phúc cá nhân để đối diện với thực tại khổ đau của cuộc sống, và tìm phương pháp giải thoát khổ đau cho chính mình và người khác. Ông nói: “Với cương vị Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, khi đến thăm thánh địa này, tôi được thúc đẩy rất nhiều trong sứ mệnh gìn giữ hòa bình cho nhân loại”. Ông luôn ủng hộ Dự án Phát triển Lumbini và ngỏ lời hỗ trợ để sớm hoàn thành dự án tâm linh này.

Ông Ban Ki Moon bày tỏ lòng kính ngưỡng sâu sắc đối với đức Phật và khẳng định giáo pháp của đức Phật sẽ mang lại hòa bình, hòa giải và hỗ tương giữa các tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa khác nhau trên thế giới. Và giáo lý của đức Phật sẽ thúc đẩy nhân loại theo đuổi một thế giới tốt đẹp, hòa bình và thịnh vượng hơn.

Phái đoàn của ông Ban Ki Moon đến Nepal trong công vụ của Liên Hiệp Quốc và viếng thăm Lumbini theo lời mời của Thủ tướng Nepal, Pushpa Kama Dahal. Tại thánh địa Lumbini, phái đoàn được Ban quản lý Dự án Phát triển Lumbini và Tăng Ni Phật tử đón tiếp long trọng. Ông Ban viếng thăm tất cả các di tích trong thánh địa và ấn tượng nhất là trụ đá của vua A-dục. Sau khi tóm tắt Dự án Phát triển Lumbini, ông Keshav Shakya, phó ban quản lý Dự án đề nghị Liên Hiệp Quốc hỗ trợ để dự án sớm hoàn thành và đã được ông Ban hoàn toàn ủng hộ.

Đức Phật đản sanh tại tiểu lục địa Ấn Độ hơn 2550 năm trước. Thế kỷ thứ III trước công nguyên, Hoàng đế Phật tử A-dục chiêm bái khu vườn Lumbini và khắc chỉ dụ trên một trụ đá để xác định cho hậu thế biết đức Thế Tôn đã đản sanh tại Lumbini. Từ đó về sau, nhiều vua quan, thức giả, Tăng Ni và Phật tử hành hương chiêm bái thánh địa này. Cho đến năm 1312, sử liệu còn ghi, vua Ripu Malla, trị vì vương quốc Karali, phía Tây Nepal viếng thăm và lễ bái thánh địa Lumbini. Tuy nhiên, từ nửa thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XIX, Lumbini đã bị quên lãng. Mãi đến năm 1896, tiến sĩ Futher phát hiện trụ đá khắc chỉ dụ của vua A-dục và hai năm sau, chỉ dụ này được tiến sĩ Buhler chuyển dịch và công bố tại Anh quốc, thánh địa Lumbini mới được chú ý trở lại.

Năm 1956, Hội nghị Liên hữu Phật giáo thế giới lần thứ 4, tổ chức tại Nepal, đã thảo luận một dự án phát triển khu vực tâm linh nổi tiếng thế giới này. Đến năm 1967, cố Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ông U Thant viếng thăm Lumbini. Và ông đã thảo luận dự án phát triển Lumbini với cựu quốc vương Nepal Mahendra. Sau đó, được sự ủng hộ mạnh mẽ của Liên Hiệp Quốc, quốc vương Mahendra đã phê chuẩn Dự án Phát triển Lumbini. Họa đồ của dự án này do kiến trúc sư nổi tiếng người Nhật, giáo sư Kenzo Tange thực hiện trong thời gian 8 năm, từ năm 1970 đến 1978. Dự án chính thức khởi công vào năm 1978, với diện tích 774 ha, chia thành ba khu vực: ngôi làng mới Lumbini, khu Tự viện và vườn Lumbini. Ngôi làng mới Lumbini gồm viện bảo tàng, thư viện, khách sạn, nhà nghỉ và những dịch vụ phục vụ cho du khách đến chiêm bái thánh địa này. Khu vực Tự viện gồm tự viện của hai truyền thống Bắc và Nam tông từ nhiều quốc gia Phật giáo. Vườn Lumbini là thánh địa chính nơi đức Phật đản sanh.

Từ khi Liên Hiệp Quốc và hoàng gia Nepal phê chuẩn Dự án Phát triển Lumbini, ban quản lý dự án đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế về dự án này, nhưng đã trãi qua hơn 30 năm, dự án vẫn chưa hoàn thành. Ông Keshav Shakya nói với báo chí tại Lumbini rằng, lẽ ra dự án này đã phải kết thúc vào năm1995, nhưng vì tình trạng bất ổn chính trị ở Nepal kéo dài trong nhiều năm, nên thiếu sự hỗ trợ của chính phủ; vì vậy tiến độ dự án bị chậm lại. Hiện nay, dự án đang rất cần sự hỗ trợ của chính phủ Nepal và Liên Hiệp Quốc.

Theo ông Colin Kaiser, trưởng văn phòng Liên Hiệp Quốc tại Nepal, trong 5 vị Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc công du đến Nepal, ông Ban Ki Moon là người thứ tư đến thăm thánh địa Lumbini. Ông Kofi Annan có công du đến Nepal nhưng không viếng thăm thánh địa này.

Nguyên Lộc
[Tập san Pháp Luân - số 56, tr.94, 2009]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.