Từ Empedocles đến Bồ-đề đạo tràng - Phần 1

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

 

Trong trường hợp này, ta có một Empedocles, một triết gia phức hợp, một nhà tiên tri, một nhà khoa học, một nhà thơ, nhà thần học và cũng là một thầy thuốc dạo, một trí tuệ đến từ thiên hà xa xôi nào đó, một trí tuệ của huyền thoại Hy-lạp. Chúng ta đã từng bắt gặp ở Pythagoras với tất cả những hành tướng như thế và giờ đây được minh họa hoàn chỉnh ở Empedocles, một nhân vật có sức ảnh hưởng to lớn vào khoảng năm 440 trước Công nguyên; thậm chí sức ảnh hưởng ấy vẫn còn cho đến ngày hôm nay. Ông ta là một nhân vật trẻ tuổi cùng thời với Parmenides, thay vì bị chi phối bởi tư tưởng Parmenides, thế nhưng học thuyết của ông lại tương đồng với học thuyết Heraclitus hay nói khác hơn, triết học của ông là sự hài hòa giữa thuyết vô thường biến dịch của Heraclitus và thuyết hữu thể thường tại bất biến của Parmenides và Zenon. Với Heraclitus và các nhà tư tưởng tiền bối trong quan niệm sắc đơn thể cơ bản, thì ông kết hợp tất cả lại, từ đó ông có được bốn yếu tố tạo nên thế giới này. Đó là tứ đại [đất, nước, gió, lửa]. Theo ông, ở thể hài hòa, chúng cuốn hút với nhau bằng ái lực; ở thể phân ly, chúng tự chia tay bằng các xung đột như một niệm bất giác vô minh và, chúng sẽ đoàn tụ khi định nghiệp của thời kỳ xung khắc cáo tận, v.v... Nghĩa là, với Parmenides và Zenon, thì có một hữu thể hài hòa tự tồn, còn với ông thì chỉ có tình yêu và sân hận với các chu kỳ trầm luân của tứ đại phân ly. Có thể nói, học thuyết về chu kỳ mâu thuẫn của tứ đại hoàn toàn tương ưng với thuyết Thắng luận của Ấn Độ qua tính chất tối, động và các đức của Số luận. Điều đó cho ta biết rằng, trên tầm cao của tư tưởng nhân loại, tự bản chất của mọi luận điểm đều có nét liên hệ chung. Trong suy luận hay giả thuyết, ta không nên nói là tuyệt đối đúng hay tuyệt đối sai, mà ta nên nói là các giả thuyết và những tư duy như thế đã mở cho ta một con đường đầy hưng phấn và đầy sáng tạo, tính trầm lặng và cách quan sát thực tiễn của các bậc tiên hiền ấy, cái cách quan sát của các “trục” ấy, và đây là cốt cách độc đáo của thời kỳ tiền Socratle.

Để làm rõ hơn về các luận thuyết của Empedocles, ta có thể chia cuộc đời và sự hoạt động tư tưởng của ông theo các chi tiết như sau [và từ sự chi tiết hóa như thế, ta sẽ dễ dàng đánh giá được tư tưởng của ông trên một mức độ nào đó trên cơ sở nhận thức của từng cá nhân; tất nhiên, ở đây có những liên hệ đến triết học Phật giáo qua một vài quan điểm vũ trụ luận và học thuyết về nhân sinh của ông, và ta cũng có thể  khảo sát nó qua lăng kính của bất cứ nền triết học cổ đại nào của Ấn Độ]:

1. Đời sống
Nguồn chi tiết nhiều hơn cả về Empedocles, thì phải kể đến tác phẩm Đời sống của những triết gia xuất chúng [Lives of the Eminent Philosophers] của Diogenes Laertus hoặc là tác phẩm Die Pragmente der Vorsokratiker [Các tản văn thời kỳ tiền Socratus - Berlin, 1952 von Diels, H. und W. Kranz] và nhất là dịch phẩm J. Empédocles của Bollack [Paris, 1956-9]. Trong tất cả tác phẩm vừa nêu, hầu như các nhà nghiên cứu đều chú trọng đến các giả thuyết về cái chết của Empedocles, bởi vì, hành tướng diệu kỳ của ông cần phải được một đúc kết ly kỳ như một bi kịch vinh danh cho cõi đời này, rằng ông ta đã chết đuối dưới biển khi ngã từ mạn tàu xuống, rằng ông ta té ngựa và chết trong tình trạng gãy chân, rằng ông ta đã tự sát hoặc là với sự kiện quá nổi tiếng của mình, ông cảm thấy mệnh mình quá ngắn, rằng ông ta sinh ra đời là để được phong thánh và đã lao vào miệng núi lửa ở Etna để chứng minh điều đó. Thật không may, trong câu chuyện lừa bịp này, người ta đã phát hiện khi một trong hai chiếc giày ông mang với thương hiệu bằng đồng của nó bay lên khỏi núi lửa, tức là ông không được lên Thiên đàng hay phong thánh gì cả.

Do các nguồn liên hệ, ta có thể đoán là Empedocles sinh vào khoảng năm 492 trước Công nguyên ở Acragas, tức là quần đảo Sicile ngày nay và từ trần vào lúc 60 tuổi. Ông ta là con trai của một dòng tộc Meton, tiền thân của giòng Aristocratic quý tộc và quan yếu của lịch sử văn minh Tây phương và một phần của nhân loại. Nội tổ của ông cũng gọi là Empedocles và được cho là người đã chiến thắng vẻ vang trong cuộc đua ngựa của Thế vận hội Olympic vào năm 496 trước Công nguyên. Nếu thế gian này có thiên tài, thì thiên tài ấy phải quy cho Empedocles, bởi vì ông là sự hiện thân của một thông tuệ tự biện, như ông đã nói là mình đến từ một thiên hà xa xôi nào đó nhằm vạch ra cho trần gian khổ đau này con đường đạo hạnh dành cho những ai mong cầu giải thoát để về với thiên giới và ở trường hợp này ta khó chứng minh là ông đã học triết học ở đâu và do ai truyền thụ; cho dầu mọi học thuyết của ông là một kế thừa nghiêm túc từ các bậc tiền bối của mình. Ta không thể nói rằng, như Gs. Lê Tôn Nghiêm, Empedocles là học trò của Parmenides và Zenon. Chính xác hơn, ông là người kế thừa của các bậc tiền bối mình. Tuy nhiên, một lĩnh vực cần phải được quan tâm, chính là quan niệm về quỷ thần của ông và hệ luận này đã là nền tảng trọng yếu cho triết học Thiên chúa giáo [Le ‘demonologie’ Empedoclee: prolemi di metodo e altro, Quỷ thần luận: vấn đề về một phương pháp hướng đến quan điểm khác cho chủ luận này.] Cho dù, nhà thờ đã loại đi ý niệm về luân hồi hữu ngã của ông. Ta tự hỏi ông đã thừa kế những ai trong các bậc trí như là: Parmenides, Pythagoras, Xenophanes, Anaxagoras và Anaximander (từ những người này, ông được cho là đã kế thừa cách trang sức lạ đời của mình). Tuy nhiên, ông thừa nhận là mình được gợi hứng từ Parmenides để viết nên các vần thơ lục vận và một phần nào đó về cách quan sát sự vật của Parmenides, ông đã chọn ra và đưa vào trong hệ thống vật lý của mình như một cương giới. [from whom he took the inspiration to write in hexameter verse, and whose physical system he adops in part, and partly seeks to rectify.]

Như đã nêu, Empedoles là người thuộc giòng quý tộc, ông luôn là khách mời tham dự hàng đầu trong những chàng trai, và tất nhiên ông được các cô gái ở Acragas xem là của hồi môn của mình. Về cách trang phục, ông vận áo dài màu tía [purple robe] với đai thắt lưng vàng và mang giày có thương hiệu bằng đồng với một vòng nguyệt quế Delphic quàng thân. Trong cách nghiêm sức như vậy, ông trở thành một người tôn quý và có vẻ như là một vương giả trong quần chúng. Như ta biết qua cách sinh hoạt vương giả như vậy, đã đi ngược với quan điểm chánh trị lúc bây giờ, một quan điểm lấy sự đúc khuôn quyền lực và các chỉ đạo sở kiến làm mẫu mực. Trong chương Ăn thịt và tội ác, ông cho rằng, tội ác của nhân loại không chỉ trong việc “phạm giới” là ăn thịt, hơn thế, “bóp nghẹt tư duy” của người khác mới là đại trọng tội, mới là “đại sát sinh” - và quan điểm này đã đưa đời ông thành hành tướng của một nhà chính khách, với một thuật hùng biện vô song, làm nên nền tảng dân chủ cho các học thuyết sau này về lãnh vực ấy và thuật hùng biện [rhetoric] này đã truyền hơi nóng của mình cho thế hệ Aristotle. Chính ngay thời đại ông, thuật hùng biện đó đã làm sụp đổ đi cái bóng tối của cơ chế chánh trị Aristocratic bấy giờ, và nó được gọi là “thousand - ngàn chánh kiến”. Thật vậy, sự xuất hiện của Empedocles là một bức tranh toàn vẹn, một bức toàn đồ của một nhà chánh trị quần chúng, một lý thuyết gia hùng biện, một nhà quán quân về dân chủ và một phẩm chất bình đẳng của một hiền nhân như ‘các tản văn thời kỳ tiền Socratle’ đã mô tả.

Ngoài tư cách là một triết gia, một nhà thơ và một nhà chánh trị tuyệt vời, Empedocles cũng nổi tiếng về kỹ năng y khoa và tài năng chữa bệnh của mình nữa. Trong những bài viết về y khoa, ông tự cho mình là một thầy thuốc lang bạt hiến tặng cho vô lượng người ủng hộ mình những “cẩm nang khoa lý tự đoán bệnh” và các “tố vấn cho mọi loại bệnh” [trích từ die Fragmente der Vorsokratiker von Diels-Kranz]. Ông cũng cho phép Pausanias là địa chỉ của mình với châm ngôn, “bạn cần học y khoa (φαρμακα-pharmaka) để chinh phục bệnh tật và chiến thắng lão suy” và thậm chí “bạn sẽ lôi ra từ địa ngục nguồn sinh khí của thây ma.” Ngôn ngữ y khoa của Empedocles đã trở thành là hạnh nguyện, cho dù chưa phải vẹn toàn như bản nguyện của Dược Vương, hay Địa Tạng, tuy nhiên cái phẩm chất ấy rất cần thiết để cho các “bác sĩ tử thần lộng hành” thuộc về thời đại hôm nay của chúng ta. Những y ngôn của ông, khiến ta nhớ lại một mô hình “đại học y khoa” của bản kinh Dược Sư, mà hầu như ta chưa nghiêm túc khảo sát, ta chỉ khảo sát trên phương diện bản thệ theo “truyền thống” nào đó của Phật giáo mà thôi hay nói khác hơn bản thệ chỉ còn là “tụng niệm” chớ chưa thành là “hành và nguyện” phổ niệm ở thế gian và, đây là một vấn đề bức thiết của ngày hôm nay “hành và nguyện” nhằm để làm xói mòn dần những “tệ nạn xã hội”, chẳng hạn, tệ nạn bác sĩ “bán và nhập rác y tế” hay “buôn và nhập thuốc quá hạn” hoặc bác sĩ “đào tạo thôn làng” như được diễn thường xuyên qua thông tin báo chí mà ta từng biết là đã gây ra khổ đau cho trăm vạn đời thường.

Bản văn die Fragmente der Vorsokratiker von Diels-Kranz cho rằng, qua các diễn ngôn của ông, một thực thể Empedocles là không thể nắm được, tuy nhiên, truyền thống sinh ra từ ông vừa cho cả nền y khoa rạng rỡ lẫn một hành giả tâm linh dũng kiện hoặc nguyên lý y khoa phổ biến là một điều hoàn toàn hiện thực. Hơn nữa, những sự kiện có tính nhân loại như thế có thể đã sinh ra từ những trang thơ của ông. Nói cách khác, trong các trứ tác của mình, ông đã trình bày mối bận tâm đáng kể về khoa sinh vật và nhất là ngành khoa học phôi bào [embryology] và chỉ chừng ấy đủ cho ta biết ông đã cống hiến như thế nào về lãnh vực y khoa mà ông phải là người đầu tiên đại diện cho một nền y khoa cổ đại có văn bản cụ thể và mạch lạc để làm thành khoa y cho chính trường phái mình.

2. Tác phẩm
Tác phẩm của Empedocles chỉ hiện còn bằng những tản văn, và thật là may, khi chúng có số lượng nhiều hơn hết so với bất cứ số lượng tác phẩm nào của thời kỳ “tiền Socratle”. Những tản văn này được tìm thấy tương đương với các trích đoạn có trong các tác giả như Aristotle hay Plutarch. Mặc dù nhiều tác phẩm bao hàm Bi kịch và Y luận đã không tồn tại, thế nhưng, nhờ vào các tản văn được viết hoàn toàn bằng khổ thơ lục vận mà trong đó chứa đựng hầu hết về lý thuyết y khoa, thuyết sinh vật, thuyết tịnh hóa, và thuyết luân hồi cũng như vũ trụ luận của ông như ta được biết về ông vốn là một tri thức bách khoa. Các tản văn này là: Περι φuσωος (về Nhiên tính) hay Φuσικα (khoa Vật lý) và καψαρμοι (các Tịnh hóa). Xét về các tác phẩm ấy, ta thấy những ý tưởng và những thể tài được Empedocles nêu ra hoàn toàn nghịch với những tác giả khác. Chẳng hạn, tác phẩm Về nhiên tính, bản văn đã cấu trúc trở lại nhiên tính và nhiên tính được xem như là công việc của vật lý cơ giới chi phối thay cho các chư Thần theo truyền thống với bốn hành chất phi cá thể vô động và hai lực hút và đẩy của vũ trụ, tức là Ái lực [gern mögen hay lieben] và Sân lực [Streife hay männlich]. Nói tóm lại, trong tác phẩm Về các tịnh hóa, người ta bắt gặp các “huyền ngôn” sâu xa về tôn giáo của trường phái Pythagoras và, con người hàm tàng một cái ngã đầu thai trong xung đột như là một định nghiệp của chính nó do các hoạt động bất thiện của mình. Từ quan điểm như thế, ta có thể phóng cái nhìn về trật tự và sự mất cân bằng hiện tại của ta và vũ trụ, tức là “hoàn cảnh và môi trường như thế nào là do hoạt động thiện và ác của chúng ta, đưa đến tình trạng mất cân đối các yếu tố sắc của chúng ta”. Tất nhiên, quan niệm về một thứ “định nghiệp” nào đó của Empedocles dễ dẫn đến một định kiến thường hữu. Tuy nhiên với các khám phá của ông cũng đã nói lên tư duy của một thiên tài đáng kính. Tóm lại, cái ngã hay linh hồn, theo Empedocles là một thật hữu tính, nó khổ đau, luân hồi là do tính hỗn độn, là do vô minh có định kỳ và rồi, nó sẽ phục hồi bản vị của nó với sự hài hòa bản hữu và theo Empedocles, vũ trụ cũng vậy thôi. Tức là nó luân hồi với chu kỳ thành và diệt. Thành thì hạnh phúc và diệt thì hỗn độn, thì luân hồi và khổ đau. Vũ trụ và linh hồn của thuyết Empedocles giống với thuyết Phạm Thiên của Ấn giáo.

3. Vật lý và vũ trụ luận

a. Vật lý
Nền tảng vật lý của Empedocles nằm trong bốn hành chất hay là các “căn tính” như ông thường gọi. Các căn tính này dùng như là một phép ẩn dụ thực vật, nghĩa là chúng ép ra được tiềm năng tạo sinh của mình cho vạn loài, tức là địa đại, thủy đại, phong đại và khí đại. Đây là những năng tố tạo thành vũ trụ mà người ta có thể nhận diện được chúng qua mọi tạo vật, nói khác hơn, bốn tố chất này là nguồn cội của tồn sinh. Chúng nối kết với nhau bằng tính phức hợp và các cân đối [Grössenverhäntnisse] trong tình trạng đặc thù [andere]. Tuy nhiên, mỗi một yếu tố đều có thể tự trì yếu tánh của mình trong sự phức hợp này, do vậy, tự mỗi tố chất có một hằng tính thường tại (nhậm trì tự tính, quỹ sinh vật giải). Vị thế của bốn tố chất này cấu thành bộ phận truyền thống của các nguyên lý sở tạo sắc đối nghịch hẳn với nền triết học “tiền Socratle” lúc bấy giờ, thế nhưng nó cũng có nguồn cội của nó trong một nỗ lực chống lại thuyết đơn nhất và hằng hữu của Parmenides, người đã tuyên bố là “hữu thể không thể do vô xuất sinh, và không thể có cái không nào hoại được cái có, tức không thể có mà thành không; học thuyết này xét như là nhất nguyên thực tại luận. Empedocles đã dùng hệ luận của Parmenides và đảo ngược lại rằng, nếu như hữu không thể do vô xuất sinh và cũng không do vô hoại diệt, và do vậy để giải thoát hiện thực của thế gian luân hồi, thế thì ta cần phải kết luận là có một cái gì đó tinh tế nhất ở bên dưới của dịch biến, phát sinh và lão suy tương tục của sắc thế gian này mà sinh già suy chết là các hiện thực phổ kiến. Và từ lập luận như thế, Empedocles chuyển tính thường tại được Parmenides chủ trương vào trong thế giới tứ đại của mình và thay thế tính tĩnh tại thường hằng của Parmenides bằng một đa nguyên động với bốn nguyên tố. Bốn tố chất này hoàn toàn tương ưng với các biểu đạt của chúng nơi cấp độ vĩ mô của nhiên giới, như ta thấy tình trạng tứ phân của vũ trụ qua đất, biển, khí và Ête tạo lửa của các thiên thể [heavenly bodies]. Về bản chất, bốn yếu tố này minh hiện sự tách ly tự nhiên có cơ sở của sắc pháp hay vật chất ở phạm vi rộng rãi nhất. Sự tách ly này [mà sau này người ta ứng dụng cho trừ pháp trong toán học] ở cấp độ thực tại vĩ mô được ứng dụng cho cấp độ vi mô để sản xuất một lộ trình song song giữa giòng tương tục của vật chất và các giòng tương tục nền tảng của vũ trụ, tuy nhiên, sự tái sản xuất của thế giới qua bốn bộ loại chất liệu đó không làm hoại đi thực tại của thế giới như ta thấy, mà thay vào đó làm tăng thêm giá trị cho sự tái tạo này. Empedocles nhấn mạnh lộ trình song song này giữa các yếu tố ở các cấp độ khu biệt của thực tại bằng dụng ngữ: “mặt trời”, “biển”, “đất” và chúng có thể thay cho “lửa”, “nước” và “đất”. Về tứ đại này, mặc dù Empedocles nhấn mạnh đến lực bình đẳng của chúng, thế nhưng lửa thì vẫn được thừa nhận là một nguyên tắc thù thắng cho cả trong hiệu quả ngạnh hóa [härten] hay kết tinh ở dạng rắn trong các phức hợp của các yếu tố khác và lẫn cho nguyên lý nền tảng của sinh loại trong vũ trụ này.

Về nguyên lý hỏa đại, ta thấy học thuyết của Empedocles giống với hành hỏa của kinh Dịch, khi mà quẻ Càn [乾] còn ở trạng thái tiên thiên, theo thuyết quái vị tiên thiên, lúc bấy giờ quẻ Càn nằm ở chánh Nam của hậu thiên Ly vị, tức là hành hỏa hay hỏa đại. Hỏa đại làm khô dần trạng thái nước của giai đoạn “thiên nhất sinh thủy” của Thalès và có một cái vô hình vô ảnh là Lửa phát sinh vạn hữu trong quan kiến của Heraclitus, cho đến khi nước lửa giao nhau, tức là nước và lửa hút nhau, thì thành nên vạn hữu. Trên mặt vĩ mô, hỏa đại là hệ thống thái dương; ở mặt vi mô, xét từ lý “cận quán tự chư thân,” thì hỏa thuộc về trái tim và nước đại diện cho trái thận, nơi xuất sinh nhân loại. Hỏa đại, trong học thuyết âm dương còn là biểu ngữ cho văn minh nữa. Chẳng hạn, “thánh nhân cư Nam diện,” hoặc là “ly chi minh giả”, hay “ngọ môn quan” tức là cánh cổng đi vào trái tim bằng “thiên hành kiện” và, trong truyền thống của Bái hỏa giáo và tính trong sáng của Thắng Luận, thì lửa vẫn là biểu ngữ cho sự sáng tạo, cho sự bốc lên cao, cho tính chất thanh khí. Hỏa chính là mặt trời, mặt trời mọc ở phương Đông và rực rỡ ở phương Nam, “Đế xuất hồ Chấn, tề hồ Tốn, tương kiến hồ Ly...”, khi mà Đế hội kiến ở cung Ly, tức là thời đại của Ái lực, thời kỳ của từ bi thông tuệ, khi mà Đế lao khổ ở cung Càn hay là hướng về phía Tây nam, thì vũ trụ rã phân, sân lực hợp thành sân lực chi phối đất trời này, lúc bây giờ, vũ trụ đi vào vận Bỉ, thời kỳ Diệt của hệ thái dương, đây là cái vòng luẩn quẩn của vũ trụ và cũng là cái vòng luẩn quẩn của kiếp người. Chỉ có một tổng hợp tương đối như thế này, ta mới biết giáo chỉ của Phật-đà cao siêu biết chừng nào, sự cao siêu ấy, chỉ có thể hội ngộ cùng các triết gia “tiền Socratle”, bởi vì, các vị tiên hiền đó, đã tư duy về vũ trụ và nhân sinh trên thân giới và tâm giới, từ khi Logos trở thành logique, thì con người đã tư duy theo hệ nhị phân rồi, nghĩa là người ta chỉ còn lý luận và không còn giới thể nữa, người ta chỉ còn lý trí mà dần kém từ bi, nói theo kinh Dịch hay Empedocles, thì lúc bây giờ, người ta chỉ còn có quả Thận [thận thủy chủ về trí, chủ về ái hà, chủ về bóng tối uất khúc, chủ về lý luận, chủ về ngã tưởng] và nước làm tắt lụi hỏa, vũ trụ hụt hẫng sự cân bằng của nước và lửa, của kim và mộc, của thổ và thủy. Và giờ đây là thiên tai, là chiến tranh, là lừa gạt và nhất là phi giới luật, trong phạm vi rộng của vũ trụ và toàn cộng đồng. Tuy nhiên, học thuyết nhị phân của kinh Dịch còn đi xa hơn một bước, đó là cái học của phương vị, thuật ngữ thường gọi là triết lý biện phương, thuật ngữ biện phương này, có thể sánh với chữ sukhāvatì vyuhaḥ trong bản kinh A-di-đà, nghĩa là cõi được biện phương bằng các trạng thái phúc lạc.

b. Vũ trụ
Empedocles đặt cho vũ trụ hai sức mạnh hiện thực mà ta có thể xét qua biểu hiện của nó trong thế giới này, đó là những yếu tố sinh và diệt. Với con người, năng lực sinh, chính là tình yêu [φιλια] - một lực hút và nối kết - và lực đẩy hay diệt [νεικος] - lực xung đột và tách ly. Các năng lực vũ trụ như vậy có được quán sát bằng thuật ngữ cơ giới thuần túy như Empedocles mô tả cái cách vạn hữu xuất sinh hay không hoặc như các biểu đạt thuộc tính nội tại của các yếu tố này có được hay không, hoặc có hay không như các năng lực ngoại tại tác động cho các yếu tố này như thế nào thì không được rõ ràng cho lắm. Tức là sự lý giải của Empedocles chưa được rõ ràng cho lắm là hai năng lực này có phải được xem như là những năng lực vật lý cơ giới phi cá thể [unpersönlich] hay không, hoặc có phải là chư thiên trí vận hành trong cái cách có mục đích ở sự tạo sinh và tạo diệt hay không, nghĩa là một nguyên nhân luận cho tất cả thì Empedocles không cụ thể đề cập. Chứng cứ có thể tìm thấy cho tất cả các thuyên thích này là cái mà cả hai-Ái lực và Sân lực-đưa đến mâu thuẫn nội tại để giành cho được sự thống trị vũ trụ và rồi kết quả của chu kỳ vũ trụ vận hành chính là do sự mâu thuẫn này. Tuy nhiên, các chi tiết của chu kỳ vũ trụ, những sở cứ do Empedocles nêu ra cũng rất khó chứng minh, nhưng, trong phạm vi rộng có thể chấp nhận được theo một lược trình sau đây nhằm hiển thị quan kiến của Empedocles:

Theo tiến trình của kim đồng hồ, khi mà Ái lực hoàn toàn thống ngự, “cô nàng” ấy hay tịnh âm kéo hết mọi yếu tố liên kết với nhau trong một khối hình cầu, cho dù các yếu tố này không kết tinh trong một khối đơn nhất, thế nhưng mỗi một yếu tố đều không tha hóa. Lúc bấy giờ, khối hình cầu này là một trạng thái phi vũ trụ [a-cosmic] diễn ra phi vật chất và không có sự sống nào có thể xảy ra, tức là một vũ trụ trong trạng thái tịch lặng. Ta thấy, Ái lực của Empedocles là tịch tịnh, là sinh khí là cuốn hút, là phi hữu, hoàn toàn âm tính. Khi mà Ái lực dần dà yếu đi, thì Sân lực tiệm tăng, lúc bây giờ “anh ấy” hay tịnh dương tách ly các tố chất trong khối hình cầu ra, cho đến khi các tố chất ấy đủ tách rời để vật chất hiện thành và để cho thế giới được tạo sinh và cho mọi loài khởi phát. Khi mà anh chàng “Sân lực” đã hoàn toàn thống trị, chúng ta lại có một tình trạng phi vũ trụ mà ở đó các yếu tố triệt để tương ly, toàn là Dương tính và thế giới lẫn vũ trụ bị phá hủy trong cơn lốc xoáy [Wirbeln / en colimaçon], vũ trụ cứ xoay vần như thế, hết hận rồi tới yêu, hết Ái rồi tới Sân và ta tưởng đến chuỗi 12 chi nhân duyên của Phật giáo cứ như vậy theo giòng thuận nghịch của vô minh, không có chỗ dừng. Cho dù Ái lực của Empedocles không phải ở trong phạm trù của vô minh, tuy nhiên, vũ trụ tịch tĩnh trong ái lực của ông giống như sự tĩnh tại của vòng “Thái cực” trong học thuyết nhị nguyên của kinh Dịch hay lý tưởng tuyệt đối hài hòa của một số học thuyết thái hòa viễn vông nào đó, và rồi đến một chu kỳ nào đó nó bị Sân lực hoặc “dục nhiễm” hay mâu thuẫn nội tại nổi lên và thủ tiêu nó. Với ý nghĩa như vậy, chư Phật và các bậc Thánh ra đời và thành đạo dưới cội Bồ-đề chính là ở chỗ mâu thuẫn này—các Ngài thành đạo trong cơn lốc xoáy ấy và cơn lốc đã được chuyển thành bánh xe Pháp theo giới thể của mình và ba cõi từ đó được vinh danh—chớ không phải bằng các hạn từ lý thuyết của những vết son môi.

Khi vũ trụ tồn tại trong giòng tương tục, thì lúc đó sở y của nó hẳn có một phẩm tính ổn định nào đó trong sự vĩnh hằng của các tố chất. Nếu như thế giới tồn tại trong tình trạng tương tục tiến hóa có tổ chức, vậy thì ở đó phải có hai tạo vật và hai cảnh giới dị biệt mà giữa chúng không cần có sự liên hệ trực tiếp nào. Theo sự thuyên thích ở mức độ rộng nhất được thừa nhận, Empedocles cho rằng, chính chúng ta đang sống trong thế giới dưới năng lực hoại diệt tăng dần, nghĩa là chúng ta đang bước vào chu kỳ hắc ám của toàn dương tính thống trị.

Pháp Hiền cư sỹ (còn tiếp)
[Tập san Pháp Luân - số 46, tr.28, 2007]