Hoa trong ý Xuân

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Ngôn ngữ của loài hoa là tiếng gọi thiết tha nhất toát lên từ tự tâm.(HC)

 

Xuân về trăm hoa khoe sắc thắm, mỗi loài hoa như họa cho mình một sắc màu lung linh diệu kỳ, mỗi loài hoa là sự kết tinh tuyệt mỹ của tạo hóa, mỗi loài hoa là biểu trưng của ý nghĩa thâm tình mà con người thường lấy nó để thay cho ngôn từ. Và ai đó đã từng nói: Ngôn ngữ của loài hoa là tiếng gọi thiết tha nhất toát lên từ tự tâm.

Nhớ trong hội Linh Sơn ngày xưa, đức Phật cầm đóa sen tinh khiết đưa lên, cả hội chúng đều ngơ ngác không hiểu thâm ý của Phật muốn dạy gì; duy chỉ có Tôn giả Ca-diếp mỉm cười. Cái mỉm cười nhẹ nhàng mà thể hiện sự cơ cảm giữa thầy và trò, nên sau đó Tôn giả Ca-diếp được phó chúc Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm. Ở đây, Phật ý được thể hiện từ cành hoa bất nhiễm và sự cơ cảm từ nụ cười hàm tiếu của Tôn giả Ca-diếp. Nhân duyên đó đã trở thành giai thoại siêu việt ngôn ngữ mà người đời sau đã có vô số chữ nghĩa diễn bày. Phải chăng, hoa ở đây là biểu trưng cho cái tinh khiết, là con đường thăng hoa đến Thánh đạo và nụ cười hàm tiếu là mùa Xuân chớm nở, là lòng hân hoan tiến bước trên lộ trình giải thoát?

Khi nói về mùa Xuân thì mọi người con Phật trên khắp nẻo hành tinh đều nghĩ đến nụ cười hoan hỷ của ngài Di-lặc. Một nụ cười hàm chứa sức mạnh kỳ lạ của nội tâm, nó có thể đánh tan tất cả sự ưu phiền và dẹp bỏ đi những lợi danh phù phiếm của thế sự để trở về sống trong thực tại hạnh phúc nhiệm màu. Vẫn mãi nụ cười đó, một nụ cười hoan hỷ đầy sức sống như hoa, nhưng tùy thuộc vào hoàn cảnh thực tại và tâm tư cá biệt mà mỗi người nhận thức về ý nghĩa của nụ cười, sự chuyển hóa có khác nhau.

Nay Xuân Ất Dậu lại trở về trên dải đất Việt Nam thân yêu. Ngắm nhìn nụ cười hoan hỷ của ngài Di-lặc, tâm tư của chúng ta có những cảm nhận khác nhau. Vì vậy, Xuân năm nay, chúng ta hãy cùng hòa mình vào lòng dân tộc để “ôn cố tri tân”. Từ những lễ thức đậm nét văn hóa qua ba ngày Tết, đến muôn vẻ trong đời sống thực tại, chúng ta hãy cùng nhau biến tâm tư thánh thiện được nảy mầm từ ý Xuân thành hành động tràn đầy lòng từ bi cao cả, như muôn đóa hoa thơm ngát hiến dâng sắc hương giải thoát cho đời, mà mấy ngàn năm trước đức Thế Tôn đã dùng cành hoa phó chúc.

Thể theo dòng tâm cảm ấy và vẫn biết rằng, Xuân đến Xuân đi là định luật thời tiết, là sự tuần hoàn của đất trời. Tuy nhiên, một sát na nhỏ bé của thời gian, đôi khi cũng là định mệnh thay đổi số phận của đời người. Cho nên, chúng ta hãy dừng lại một khoảnh khắc để sóng lòng được yên ả và lắng nghe chính mình, lắng nghe tất cả. Rồi từ đó nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của mùa Xuân. Nó nói gì, gợi gì cho chúng ta?

Chúng ta nghe trong ý Xuân là điểm hội tụ buồn vui của năm cũ, lại nghe cõi lòng mình mang nhiều ước vọng hay đẹp hướng đến trong năm mới. Những gì diễn ra trong năm cũ là đồng thời với quá khứ đã qua, vậy chúng ta hãy lấy đó làm kinh nghiệm trên bước đường thực hành lời Phật dạy. Trong tương lai sắp đến, chúng ta phải có tư lương được vun bồi từ kinh nghiệm cho lộ trình mới được thành tựu hơn. Vì chúng ta biết, trong cái vô thường luôn ẩn tàng cái chơn thường, mà ước vọng luôn là sự lung linh chiếu diệu như những đóa hoa chớm nở muốn vươn mình tỏa hương thơm ngát. Ấy chính là quy luật thăng hoa tâm thức mà chúng ta hãy nắm lấy để thành tựu bằng hành động có định hướng từ kim chỉ nam là niềm tin Chánh pháp.

Trong những ngày Xuân, đứng giữa sự giao thoa của đất trời, lòng người cứ bời bời ra đó nhưng lại hòa trộn thành một niềm riêng. Rồi từ trong sâu thẳm của sự thánh thiện đó, chúng ta nhìn ra thế giới thực tại thấy mọi huyễn tượng tương duyên với nhau như là định luật sinh diệt ẩn hiện nhiệm mầu. Thế nên, trong cái bời bời luôn có cái định luật. Là người con Phật, chúng ta không bao giờ chịu thua cuộc bởi thất vọng, hay chịu khuất phục bất cứ sức mạnh của thế lực vô minh, tham vọng nào đang ngự trị trong tâm thức. Vì chúng ta có đủ niềm tin vào đức Thế Tôn, một bậc Đại hùng Điều ngự; có lòng vị tha học được từ hạnh từ bi, hỷ xả của đức Di-lặc và đặc biệt có lòng tin vào sự sáng suốt của chính mình.

Thấu rõ điều đó rồi chúng ta hãy phát tâm làm lợi lạc quần sanh, cho dù chỉ thể hiện bằng hành vi ban bố đơn giản nhất cũng chính là lòng từ của Bồ-tát sơ phát tâm. Một khi phát tâm rồi, chúng ta còn khéo điều phục chớ để thối thất như hai hạng người mà trong phẩm Chúc lụy đức Phật đã dạy cho ngài Di-lặc: “Một là nghe kinh thâm diệu sanh lòng khiếp sợ, nghi hoặc chẳng tin, không thể tùy thuận, lại phỉ báng rằng: xưa nay chưa nghe kinh, kinh này từ đâu mà có? Hai là gặp có người hộ trì và giải thuyết kinh thâm diệu, chẳng những không chịu thân cận cung kính cúng dường, lại còn theo đó nói xấu người ấy. Do hai pháp này thì biết được Bồ-tát sơ học đó tự tổn hại mình, không thể ở nơi pháp thâm diệu, tự điều phục tâm”. (Kinh Duy-ma-cật)

Bởi vậy, để làm một vị Bồ-tát sơ phát tâm, tự điều phục tâm, chúng ta phải có đủ tuệ giác để tiếp nhận nghĩa lý thâm diệu mà không sanh lòng kiếp sợ, bạc nhược; có đức tin vững chắc vào chân lý tối thượng mà khởi tâm hành động chân chánh; có đủ phương tiện để trở thành người có nhân cách chân chính, làm thân giáo, khẩu giáo nhiếp hóa mọi người. Đó chính là sự thể hiện công hạnh, bản hoài của mình và cũng chính là sự tiếp nối tâm nguyện lớn lao của đức Di-lặc; tâm nguyện đi vào đời, mang theo nụ cười hoan hỷ an nhiên tự tại để chia sẻ những âu lo cho đồng loại. Đó chính là chúng ta đang sống với ý nghĩa của Xuân Ất Dậu năm nay và cũng là góp vào vườn xuân những đóa hoa huyền nhiệm.

Huyền Châu.
[Tập san Pháp Luân - số 11, tr.14, 2005]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.